Hiệu quả 2 năm thi hành Hiệp định EVFTA của doanh nghiệp Việt Nam
Hôm 10/11, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Viện FNF Việt Nam đã tổ chức hội thảo trực tiếp và trực tuyến “Đánh giá hai năm thực thi Hiệp định EVFTA tại Việt Nam từ góc nhìn doanh nghiệp”.
Hội thảo đã tổng kết những kết quả đạt được trong hai năm thực thi EVFTA từ góc độ thương mại - đầu tư và xây dựng pháp luật – thể chế tại Việt Nam, đồng thời công bố Báo cáo “Việt Nam sau hai năm thực thi EVFTA từ góc nhìn doanh nghiệp”. Bản báo cáo do VCCI thực hiện với sự hỗ trợ của Viện FNF dựa trên kết quả khảo sát hơn 500 doanh nghiệp trên cả nước, và nghiên cứu rà soát đánh giá các văn bản pháp luật thực thi EVFTA trong hai năm qua.
Trong hai năm đầu thực thi Hiệp định EVFTA, kinh tế thế giới và Việt Nam đã phải đối mặt với những biến động chưa từng có từ dịch bệnh Covid-19, đứt gãy các chuỗi cung ứng, đến xung đột Nga - Ukraine, khủng hoảng năng lực, lương thực.
Tuy nhiên, theo ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, những số liệu thống kê vĩ mô cho thấy EVFTA đã góp một phần quan trọng làm giảm nhẹ tác động bất lợi, và giúp quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và EU phát triển khả quan.
Về thương mại, tổng kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU hai năm đầu thực thi từ tháng 8/2020-7/2022 đã đạt 83,4 tỉ USD, tương đương mức trung bình 41,7 tỉ USD/năm, cao hơn tới 24% so với kim ngạch xuất khẩu trung bình năm giai đoạn 2016 - 2019 trước đó. Tỷ lệ hàng xuất khẩu tận dụng ưu đãi thuế quan EVFTA năm 2020 đạt 14,8%, tăng lên 20,2% năm 2021 và 24,5% trong 6 tháng đầu năm 2022.
Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), FDI của EU vào Việt Nam năm 2020 đạt gần 1.376 triệu USD vốn đăng ký, giảm 8,6% so với 2019, đứng thứ 8 và chiếm 4,8% tổng vốn FDI vào Việt Nam. Năm 2021, tình hình đã có sự cải thiện với tổng vốn hơn 1.405 triệu USD, tăng 2,2%, đưa EU vươn lên đứng thứ 5 nhưng tỷ trọng trong tổng FDI giảm nhẹ, chiếm 4,5%. Đặc biệt, tổng vốn đầu tư bình quân năm 2 giai đoạn 2017 - 2021 tăng 86% so với thời gian 2015 - 2016.
Tuy nhiên, đầu tư vào Việt Nam mới chỉ chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn trong tổng đầu tư ra nước ngoài của EU tương đương 0,35% năm 2021.
Theo bà Nguyễn Cẩm Trang, Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu, Bộ Công Thương, EVFTA đã góp phần đáng kể thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường đối tác. Cụ thể, trong 2 năm thực thi Hiệp định EVFTA, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng sang thị trường EU như sắt thép tăng 739%; máy ảnh, máy quay phim, linh kiện tăng 260%; máy móc và thiết bị tăng 82,3%.
Ngoài ra, một số mặt hàng mới cũng có tăng trưởng cao sang thị trường EU trong hai năm qua như nhóm gạo, sản phẩm mây tre, cói thảm (tăng trên 50%); các sản phẩm gốm, sứ (tăng trên 25%); nhóm rau quả, dây diện và dây cáp điện (tăng trên 15%).
Kết quả khảo sát doanh nghiệp về EVFTA được bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập – VCCI chia sẻ cho thấy tỷ lệ các doanh nghiệp Việt Nam từng được hưởng lợi từ EVFTA là rất đáng khả quan, với gần 41% cho biết đã từng hưởng ít nhất một lợi ích nào đó từ EVFTA. Lợi ích phổ biến nhất là từ các ưu đãi thuế quan đối với hàng xuất-nhập khẩu và hiệu ứng tích cực trong gia tăng đơn hàng, doanh thu, lợi nhuận.
Theo bà Nguyễn Thị Thu Trang, điều này có thể là kết quả của sự cải thiện trong mức độ hiểu biết của doanh nghiệp về Hiệp định này. Bởi theo khảo sát, có tới gần 94% doanh nghiệp từng nghe nói hoặc biết ở các mức độ khác nhau về Hiệp định EVFTA, cao nhất trong số các hiệp định thương mại tự do (FTA) đang thực hiện. Cứ 10 doanh nghiệp thì có 3 doanh nghiệp biết khá rõ và 1 doanh nghiệp biết rất rõ về các cam kết EVFTA có liên quan tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Cũng theo bà Nguyễn Thị Thu Trang, so với nhiều FTA khác, EVFTA đã mang lại cơ hội đáng kể cho các doanh nghiệp Việt Nam. Một trong những động lực giúp các doanh nghiệp quan tâm cũng như tận dụng được ưu đãi thuế quan và các cơ hội từ EVFTA là lợi ích từ hiệp định này. Đây là FTA giữa Việt Nam và đối tác EU, nhưng cũng là hiệp định giữa Việt Nam với tất cả 27 đối tác trong EU.
Tuy nhiên, có tới 59% các doanh nghiệp cho biết chưa từng hưởng lợi từ EVFTA trong 2 năm qua. Các lý do phổ biến được doanh nghiệp đưa ra là chưa có giao dịch nào với đối tác EU trong thời gian này; không biết lợi ích cụ thể nào của hiệp định để tận dụng.
Thêm vào đó, khoảng 4,2% doanh nghiệp cho biết đã từng chịu thiệt hại từ hiệp định, chủ yếu ở dạng các chi phí tuân thủ tăng, sản phẩm chịu sức ép cạnh tranh lớn hơn từ hàng hóa EU nhập khẩu.
Trước khi có Hiệp định EVFTA, EU với tư cách là khu vực phát triển đã có những ưu đãi với hàng hóa đến từ các nước đang phát triển có năng lực cạnh tranh còn hạn chế. EU cũng đã dành cho Việt Nam những ưu đãi như vậy. Đây là cơ chế ưu đãi đơn phương EU dành cho Việt Nam. Theo cam kết, chương trình ưu đãi đơn phương này sẽ kết thúc vào cuối năm nay.
Số liệu của Bộ Công thương cho thấy tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ EVFTA trong 2 năm đầu tiên đạt xấp xỉ khoảng 20%. Các doanh nghiệp đã có bước chạy đà tích cực để tiếp tục khai thác hiệu quả EVFTA sau khi hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) chấm dứt.
Nhưng về tương lai, 76% doanh nghiệp cho rằng EVFTA và các FTA sẽ có tác động tới triển vọng kinh doanh trong 3 năm tới, và phần lớn lạc quan đây sẽ là các tác động tích cực.
Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng chỉ ra các lực cản có thể khiến họ khó hưởng lợi từ EVFTA và các FTA, đáng kể nhất là các biến động và bất định của thị trường khi có tới 47% doanh nghiệp đề cập tới vấn đề này, năng lực cạnh tranh hạn chế (46%), thiếu thông tin về cam kết và cách thức tận dụng (40%).
Minh Thu