Không hút thuốc, bỗng dưng co giật, cô gái 25 tuổi đi khám phát hiện ung thư phổi di căn lên não
Bỗng dưng co giật rồi tê yếu nửa người trái, cô gái trẻ đi khám thì bất ngờ khi được chẩn đoán bị ung thư phổi trái di căn não, giai đoạn IV.
Bệnh nhân P.L.N. (25 tuổi, Hà Nội) trước khi nhập viện 2 ngày xuất hiện một cơn co giật toàn thân, khoảng 3 phút sau đó tê yếu nửa người trái. Ngoài biểu hiện này ra, chị không hề bị sốt, đau ngực hay khó thở, cũng không ho ra máu.
Được người nhà đưa đến khám tại Bệnh viện Bạch Mai, sau khi các bác sĩ chỉ định chụp cộng hưởng từ chị nhận được kết quả có u não vùng thùy trán phải.
Kết quả chụp cắt lớp vi tính lồng ngực cho thấy hình ảnh u thùy trên phổi trái kích thước 40x20mm. Hạch trung thất kích thước lớn nhất 20x30mm.
Hình ảnh chụp cộng hưởng từ sọ não phát hiện khối u thùy trái phải của bệnh nhân N. |
Bệnh nhân được chẩn đoán bị ung thư phổi trái di căn não, giai đoạn IV. Kết quả giải phẫu bệnh là ung thư biểu mô tuyến. Tổn thương di căn não gây chèn ép dẫn đến co giật nhiều lần/ngày (mặc dù đã được điều trị thuốc chống động kinh), cộng thêm tình trạng chảy máu trong u nên bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật lấy bỏ khối u não cấp cứu.
Sau đó, bệnh nhân được chuyển sang Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai. Tại đây, bệnh nhân được điều trị bằng hóa chất toàn thân phác đồ PC-Bevacizumab (hóa trị kết hợp điều trị đích).
Theo BS CKII Võ Thị Huyền Trang, trước đó bệnh nhân khỏe mạnh, không có tiền sử dị ứng, không hút thuốc lá, khai thác tiền sử gia đình cũng chưa phát hiện gì đặc biệt. Bệnh nhân bị liệt không hoàn toàn nửa người trái, cơ lực 4/5. Các xét nghiệm công thức máu, sinh hóa máu chức năng gan, thận… đều bình thường. Chất chỉ điểm ung thư CEA và Cyfra đều tăng.
Sau một tháng điều trị bệnh nhân tỉnh táo, không xuất hiện co giật, không đau tức ngực, không khó thở, không đau đầu, tình trạng liệt nửa người trái cải thiện dần. Sau 3 tháng bệnh nhân ổn định, hết liệt nửa người trái.
Hiện tại sau 6 tháng điều trị, sức khỏe bệnh nhân ổn định, sinh hoạt bình thường. U thùy trên phổi trái giảm kích thước còn 13x14mm, không xuất hiện thêm tổn thương tại não.
Theo PGS.TS Phạm Cẩm Phương - Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai ung thư phổi không tế bào nhỏ là một trong những bệnh ung thư thường gặp tại Việt Nam, đứng thứ 2 về tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong (sau ung thư gan). Bệnh nhân thường vào viện khi đã ở giai đoạn muộn (giai đoạn III, IV).
Cho đến thời điểm hiện tại, điều trị toàn thân là hướng điều trị chủ yếu ở giai đoạn này, bao gồm hóa chất, xạ trị triệu chứng, điều trị miễn dịch. Lựa chọn và lập kế hoạch điều trị phụ thuộc thể trạng, giai đoạn bệnh và loại mô học cũng như các xét nghiệm đột biến gen của từng bệnh nhân.
Các bác sĩ cũng nhấn mạnh, ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa là một bệnh lý ác tính có tiên lượng xấu. Tuy nhiên, từ khi có điều trị cá thể hóa tùy theo từng người bệnh với các đột biến gen khác nhau thì đáp ứng với các phương pháp hóa trị, điều trị đích, miễn dịch khác nhau. Với việc áp dụng các tiến bộ mới này,thời gian sống của người bệnh đã được kéo dài đáng kể và tác dụng phụ chấp nhận được.
Bệnh ung thư phổi nói chung và ung thư phổi không tế bào nhỏ nói riêng được gây ra bởi các yếu tố khác nhau. Các nhà nghiên cứu liên tục xem xét các yếu tố này để có thể ngăn chặn nguy cơ mắc bệnh. Mặc dù không có cách nào được chứng minh có thể ngăn chặn hoàn toàn căn bệnh này, nhưng nếu bạn thực hiện một số biện pháp phòng bệnh được tư vấn từ bác sĩ chuyên khoa có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh.
Cách quan trọng nhất để ngăn ngừa ung thư phổi là tránh khói thuốc lá. Đã có nhiều thống kê, những người không hút thuốc có nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi rất thấp. Những người hút thuốc có thể giảm nguy cơ ung thư phổi bằng cách ngừng hút thuốc, nhưng nguy cơ mắc ung thư phổi của họ vẫn sẽ cao hơn những người không bao giờ hút thuốc.
Nếu phát hiện những bất thường ở phổi càng sớm sẽ làm gia tăng tỷ lệ chữa khỏi và ngăn chặn tiến triển bệnh thành ung thư. Vì vậy, thực hiện việc tầm soát ung thư phổi định kỳ là việc làm cần thiết, việc này có thể phát hiện sớm các dấu hiệu bất thường của phổi cũng như các bệnh lý liên quan đến phổi, giúp phát hiện sớm và điều trị kịp thời tránh những điều đáng tiếc xảy ra.
N. Huyền