Bộ KH&CN đánh giá tồn tại, hạn chế trong thực hiện chương trình nông thôn mới
Cụ thể như, nguồn nhân lực KH&CN nói chung cũng như nhân lực KH&CN trong nông nghiệp nói riêng có xu hướng suy giảm về chất lượng do thiếu các chính sách ưu đãi với người làm công tác nghiên cứu, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp - một trong những lĩnh vực mà người làm công tác nghiên cứu khó có thể có thu nhập cao. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ KH&CN đầu ngành ngày càng thiếu vắng.
Việc xây dựng và thực thi các chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ cũng còn nhiều bất cập, chưa phát huy được vai trò thúc đẩy phát triển thị trường KH&CN, nên hạn chế các nguồn đầu tư xã hội cho KH&CN.
Đồng thời, việc chậm triển khai chuyển đổi cơ chế hoạt động của các tổ chức KH&CN công lập trong ngành nông nghiệp sang cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm cũng có những tác động tiêu cực nhất định trong việc “chảy máu chất xám” ở các tổ chức KH&CN nông nghiệp.
![]() |
Chúng ta chưa có cơ chế để thu hút chuyên gia giỏi là người Việt Nam ở nước ngoài hoặc người nước ngoài vào làm công tác R&D tại các tổ chức KH&CN của Việt Nam.
Sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào kinh tế nông hộ: Hiện nay Việt Nam có hơn 10 triệu hộ sản xuất nông nghiệp, ruộng đất manh mún trong nông nghiệp đang là lực cản cho quá trình đầu tư ứng dụng KH&CN trong phát triển nông nghiệp.
Thời kỳ đầu đổi mới kinh tế hộ đã làm lên điều thần kỳ trong sản xuất nông nghiệp. Ngày nay khi sản suất nông nghiệp hàng hóa ngày càng phát triển, đòi hỏi phải có năng suất cao, chất lượng tốt, sản lượng nhiều thì mô hình kinh tế hộ với ruộng đất manh mún, thiếu liên kết trong tổ chức sản xuất kinh doanh đã trở thành lực cản cho việc đầu tư ứng dụng tiến bộ KH&CN.
Ruộng đất ít nên nông dân không quan tâm đầu tư áp dụng tiến bộ KH&CN, ruộng đất manh mún nêu hiệu quả áp dụng các tiến bộ KH&CN cũng thấp, nhất là trong lĩnh vực trồng trọt.
Ứng dụng công nghệ cao, công nghệ hiện đại vào sản xuất, chế biến, bảo quản còn hạn chế, chưa tạo được “đột phá” để nâng cao giá trị gia tăng, sức cạnh tranh của sản phẩm, ngành, nhất là trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng hơn.
Trình độ công nghệ nhìn chung còn thấp, chưa tạo sức mạnh lan tỏa và thúc đẩy nhanh quá trình thay đổi tập quán canh tác nhỏ lẻ, thiếu liên kết, không chuyên nghiệp.
Hoạt động nghiên cứu triển khai mới chỉ tập trung nhiều vào lĩnh vực khoa học công nghệ cho nông nghiệp, chưa chú trọng đúng mức các nghiên cứu về phát triển nông thôn, xây dựng giai cấp nông dân trong thời đại công nghiệp hoa, hiện đại hóa.
Đầu tư kinh phí cho nghiên cứu còn thấp song lại dàn trải nên hiệu quả chưa cao, chưa tạo được những đột phá về công nghệ: Tổng kinh phí nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ thuộc các nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước trong năm năm gần đây cũng chỉ đạt khoảng 100 triệu USD (hay 20 triệu USD/năm) so với thời giá hiện tại.
Mỗi một nhiệm vụ KH&CN bình quân cũng chỉ khoảng 3,0-4,0 tỉ đồng. Do thiếu kinh phí đầu tư nên cơ sở vật chất kỹ thuật ở nhiều viện nghiên cứu về nông nghiệp còn lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu, nhất là nghiên cứu về công nghệ sinh học, công nghệ cao trong nông nghiệp.
Với số lượng kinh phí ít ỏi như trên, chúng ta cũng rất khó có thể đi mạnh vào nghiên cứu các công nghệ mới, công nghệ cao trong nông nghiệp.
Tính đến tháng 10/2019, cả nước đã có 4.554 xã (51,16%) số xã đạt chuẩn NTM, bình quân mỗi xã cả nước đạt 15,32 tiêu chí NTM/xã. Với kết quả đó, có thể thấy rằng quá nửa khu vực nông thôn Việt Nam đã là NTM (tính theo số xã đạt chuẩn), mặt bằng bình quân nông thôn cả nước đã đạt 80,3% chuẩn NTM (tính theo số tiêu chí/xã 15,32/19). Nhìn từ góc độ Bộ tiêu chí NTM, có thể khẳng định kết quả xây dựng NTM 10 năm qua của nước ta là rất to lớn, toàn diện, tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ, thậm chí có thể nói là chưa từng có trong lịch sử phát triển nông thôn Việt Nam. Đến nay (10/2019), ngoài 2 mục tiêu cơ bản là số xã đạt chuẩn NTM và số tiêu chí NTM bình quân một xã mà chúng ta đã vượt kế hoạch năm 2020 từ tháng 6/2019 (trước 1,5 năm), thì kết quả xây dựng NTM có nhiều điểm sáng. Có 4 tỉnh, thành phố trực thuộc TW đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM là Nam Định, Đồng Nai, Bình Dương, Đà Nẵng. Đây là 4 tỉnh đầu tiên của cả nước có 100% số xã đạt chuẩn NTM, trong đó Nam Định và Đồng Nai là 2 tỉnh có 100% huyện đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM. Cả nước đã có 91 đơn vị cấp huyện (dự kiến cuối tháng 10/2019 sẽ có trên 100 đơn vị) được công nhận đạt chuẩn NTM. Đánh giá kết quả theo 19 tiêu chí NTM cho thấy rõ sự tiến bộ vượt bậc. |