Bác sĩ tâm lý cảnh báo, trẻ ngoan hiền, học trường chuyên lớp chọn dễ bị stress, trầm cảm hơn?
Stress và trầm cảm gặp nhiều nhất ở lứa tuổi 14 và 17, vào thời điểm thi chuyển cấp. Trẻ học trường chuyên, lớp chọn trầm cảm, stress nhiều hơn các lớp thông thường…
Trẻ ngoan hiền dễ bị trầm cảm hơn
Stress là tình trạng đáp ứng về mặt cơ thể (tăng hưng phấn thần kinh tự trị) hoặc tâm lý (cảm giác khó chịu, căng thẳng, mất kiểm soát) đối với các yếu tố làm rối loạn sự cân bằng của cá thể và vượt qua khả năng thích nghi của cá thể.
TS. Dương Minh Tâm, Trưởng phòng rối loạn stress, Viện Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai thông tin, trong một nghiên cứu năm 2019 -2020 tại Bệnh viện Nhi Trung ương với đối tượng là học sinh từ 10-19 tuổi thấy: 55,6% số trẻ có sang chấn tâm lý (áp lực học tập 20%, áp lực gia đình 20,5%, quan hệ bạn trong trường 8,9%).
Và kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng: stress và trầm cảm gặp nhiều nhất ở lứa tuổi 14 và 17, là thời điểm các cháu học sinh thi chuyển cấp lên trung học phổ thông và đại học.
Điều đáng chú ý là stress gặp nhiều hơn ở trẻ ngoan và học khá. Trong thực tế điều trị của mình, TS. Tâm thông tin, phần lớn, các trẻ đến khám và điều trị trầm cảm, stress là đến từ các trường chuyên, lớp chọn.
Một nam sinh đang phải điều trị trầm cảm tại Viện Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai |
Với những trẻ ngoan, có thành tích cao trong học tập thường có những áp lực tự thân hơn là những trẻ mải chơi, áp lực vị trí trong trường lớp, hình ảnh bản thân trong mắt gia đình, thầy cô và thường sống, suy nghĩ có trách nhiệm hơn khiến trẻ phải nỗ lực không ngừng.
“Những trẻ này thường căng thẳng và bị stress, nhất là khi không đạt được kỳ vọng sẽ bị nặng hơn trẻ khác. Điều này cho thấy các áp lực từ việc học tập, áp lực từ gia đình, áp lực thành tích là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng stress ở lứa tuổi học đường”, BS Tâm cảnh báo.
Dấu hiệu nào cảnh báo con bị trầm cảm?
Đáng lưu ý, qua khai thác bệnh sử, phần lớn các em học sinh bị stress mãn tính, quá trình stress đã âm thầm diễn biến từ khoảng 3 - 5 năm trước và áp lực thi cử chỉ là “giọt nước tràn ly”. Diễn biến tâm lý, sự thay đổi tính cách của học sinh trùng với lứa tuổi dậy thì nên nhiều bậc cha mẹ mặc nhiên chấp nhận sự thay đổi đó.
Chỉ đến khi trẻ có những hành vi làm tổn thương bản thân hoặc quá bất thường thì bố mẹ mới nhận diện và đưa trẻ đến viện thì thường trẻ đã ở giai đoạn trầm cảm, stress nặng.
Để nhận diện được dấu hiệu trầm cảm, stress ở trẻ, TS. Minh Tâm cho rằng, stress thường diễn biến rất âm thầm, tuy nhiên khi trẻ có những hành vi sau, các bậc làm cha mẹ nên quan tâm.
“Đầu tiên là hành vi tự hủy hoại bản thân (các vết cứa ở cẳng tay hoặc đùi, cắn móng tay, bấm vào đầu ngón tay..). Việc tự làm đau bản thân này là cách để giải tỏa sự bấn loạn trong cảm xúc bản thân của trẻ.
Ngoài ra, trẻ có những hành vi bất thường, trái ngược với tính cách trước kia như trẻ trở nên hung hăng, chống đối hoặc tuân thủ quá mức, có sự rối loạn trong hành vi ăn uống như ăn quá ít hoặc quá nhiều, bị rối loạn giấc ngủ như ngủ quá nhiều hoặc quá ít, buồn chán, giảm kết nối với xã hội...
Hoặc có dạng stress cơ năng như trẻ bị đau bụng, đau đầu, đau dạ dày, xuất huyết tiêu hóa... Những cơn đau này thường xuất hiện khi trẻ chuẩn bị bước vào kì thi hoặc trước sự kiện quan trọng. Khi sự kiện qua đi thì các cơn đau này giảm triệu chứng”, BS Tâm thông tin.
Cùng con vượt qua
Để ứng phó với tình trạng này, TS. Minh Tâm cho rằng các gia đình có thể tham khảo nguyên tắc 5 chữ R. Bên cạnh đó, một yếu tố đơn giản, dễ để thực thi là hỗ trợ kiểm soát giấc ngủ cho trẻ. Bởi theo TS. Tâm, giấc ngủ là điều cần thiết cho sức khỏe thể chất và tinh thần. Với trẻ từ 6 đến 12 tuổi nên ngủ từ 9 đến 12 tiếng mỗi đêm. Thanh thiếu niên cần 8 đến 10 giờ mỗi đêm. Giấc ngủ là yếu tố cần được ưu tiên để kiểm soát căng thẳng.
Ngoài ra, các bậc cha mẹ cần biết rằng, stress gây bệnh và thể bệnh phụ thuộc chủ yếu vào nhân cách. Với những trẻ có nhân cách yếu, lãng mạn, văn nghệ sỹ, nhân cách khép kín hoặc thiếu ý chí, thiếu nghị lực, nhút nhát, tự ti, mặc cảm, thiếu kìm chế, dễ bùng nổ, xung đột thường dễ bị stress hơn trẻ có nhân cách mạnh.
Vì vậy, gia đình nên xây dựng cho trẻ một môi trường thi đua, phấn đấu, tương trợ và cùng tiến. Điều này giúp trẻ chống đỡ với stress tốt hơn.
Tập luyện, hoạt động thể chất là một liều thuốc giảm căng thẳng cần thiết cho mọi người ở mọi lứa tuổi. Bên cạnh đó, các hoạt động ngoài trời, dành thời gian trong thiên nhiên cũng là một cách hiệu quả để giảm căng thẳng và cải thiện sức khỏe tổng thể.
TS. Minh Tâm cũng đưa ra lời khuyên về việc tăng cường sự gắn kết gia đình thông qua những buổi tâm sự. Trò chuyện về những tình huống căng thẳng với một người lớn đáng tin cậy có thể giúp trẻ em và thanh thiếu niên nhìn nhận mọi thứ và tìm ra giải pháp. Đây là một trong những phương thức tốt nhất giúp trẻ nhận thức ra vấn đề của mình.
Hầu hết mọi người đều tin rằng phản ứng stress có hại, là điều nên tránh bất cứ khi nào có thể. Tuy nhiên, một số́ stress mà chúng ta trải qua hàng ngày thực sự tốt cho chúng ta và tránh nó có thể có hại. Xét trên một góc nhìn khác, có thể coi stress là một thử thách giúp chúng ta ngày càng hoàn thiện và trưởng thành hơn. Từ “áp lực tạo thành động lực” để chúng ta phấn đấu.
Vì vậy, TS. BS Tâm cho rằng mỗi gia đình, mỗi bậc làm cha mẹ tùy theo năng lực, khả năng nhận thức và đáp ứng của con nên có những mục tiêu vừa sức, phù hợp và tăng dần để trẻ làm quen, giải mẫn cảm với các áp lực của cuộc sống.
Stress mãn tính có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng nếu nó không được xử lý thích hợp. Stress mãn tính làm suy yếu hệ thống miễn dịch của cơ thể, dẫn đến một số bệnh về tinh thần và thể chất như trầm cảm và các bệnh tim mạch. Để ứng phó với tình trạng này, các gia đình có thể tham khảo nguyên tắc 5 chữ R
Recognition: xác định nguyên nhân, nguồn gốc của stress, giáo dục và nâng cao nhận thức. Để vượt qua, thích ứng với stress
Relationships: Tìm kiếm sự giúp đỡ, hỗ trợ, trấn an
Removal: Loại bỏ các yếu tố gây stress và các yếu tố kích thích
Relaxation: Thư giãn thông qua các kỹ thuật như thiền, xoa bóp, tập thở…
Re-engagement: Tái tương tác thông qua tái tiếp xúc có quản lý và giải mẫn cảm.
N. Huyền