Vì sao số vụ mua bán người được phát hiện, khởi tố ít hơn rất nhiều so với con số thực tế?
Theo Báo cáo toàn cầu về hoạt động của tội phạm mua bán người năm 2020 của Văn phòng Liên Hợp Quốc về chống Ma túy và Tội phạm (UNODC) cho thấy có khoảng 70% nạn nhân buôn người được phát hiện trong năm 2017 và 2018 là phụ nữ.
Tại Việt Nam, theo bà Giang Thị Thu Thủy - Giám đốc điều hành tổ chức Hagar Quốc tế tại Việt Nam thông tin, thống kê của Bộ Công an cho thấy, tính từ năm 2015 đến năm 2020, lực lượng chức năng đã phát hiện gần 1.300 vụ mua bán người, bắt giữ được gần 1.700 đối tượng đã lừa bán gần 3.000 nạn nhân.
Các đối tượng mua bán người sẽ dùng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, hình thành nhiều đường dây, băng nhóm tội phạm mua bán người hoạt động liên tỉnh, xuyên quốc gia. Đáng ngại là nạn nhân chủ yếu bị bán sang các nước láng giềng của Việt Nam (chiếm khoảng 86%).
Cụ thể từ đầu năm 2022 đến nay, trong tổng số 40 vụ mua bán người trên toàn quốc, số vụ mua bán người được phát hiện, điều tra liên quan đến địa bàn Campuchia chiếm 17,5%. Các vụ việc tổ chức đưa người xuất cảnh trái phép sang Campuchia được phát hiện tại nhiều địa phương như Đồng Nai, Đắk Lắk, Lào Cai, Thanh Hóa, Nam Định, Gia Lai… Đến nay, đã có 183 công dân được giải cứu hoặc tự trở về từ Campuchia.
Trong số này không ít trường hợp là phụ nữ và trẻ em gái. Câu hỏi được đặt ra là tại sao phụ nữ lại chiếm đa số tỷ lệ nạn nhân của buôn người?.
Lý giải điều này các chuyên gia cho rằng có nhiều nguyên nhân trong đó phải kể đến là sự bất bình đẳng về kinh tế. Trong các gia đình kinh tế khó khăn, phụ nữ thường không có tiền, không có tiếng nói trong gia đình do đó họ sẽ tìm kiếm những cơ hội kiếm tiền. Những kẻ "buôn người" đã khai thác điều này thông qua việc lừa dối, ép buộc và lạm dụng họ. Bằng chứng cho thấy rằng chính những gia đình nghèo nhất có nhiều khả năng bán phụ nữ cho tội phạm mua bán người nhất.
Trong khi đó, trên thực tế vẫn còn nhiều khoảng trống trong chính sách phòng chống mua bán người. Bà Hoàng Bích Ngọc, Điều phối viên Dự án Em Vui (Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội- ISDS - đơn vị thực hiện dự án truyền thông trên nền tảng số phòng chống tảo hôn và mua bán người cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số, nhóm đối tượng có nguy cơ cao trở thành nạn nhân mua bán người cho rằng, rất khó để phát hiện và khởi tố các vụ việc mua bán người.
Bởi trên thực tế, quá trình phát hiện tội phạm mua bán người gặp nhiều khó khăn, trở ngại vì tội phạm luôn thay đổi phương thức hoạt động với những cách thức tinh vi nhằm qua mặt các cơ quan chức năng.
Qua khảo sát, đánh giá trước khi tiến hành dự án, bà Ngọc nhận thấy tội mua bán người là một trong những tội rất khó phát hiện, thực tiễn cho thấy số lượng các vụ mua bán người bị bắt phạm tội quả tang rất ít vì nó là loại tội phạm ẩn.
“Hầu hết các trường hợp tội phạm bị phát giác và khởi tố nhờ nạn nhân trốn thoát được và báo với cơ quan chức năng, và một số ít được phát hiện tại các cửa khẩu, biên giới.
Tuy nhiên, những trường hợp nạn nhân trốn thoát về nhưng không đủ căn cứ để xác minh người đó là nạn nhân mua bán người thì cũng không khởi tố được. Hơn nữa, rất nhiều nạn nhân sau khi bị lừa bán trở về không trình báo, bất hợp tác với cơ quan công an vì các lý do như mặc cảm, xấu hổ, sợ bị trả thù… dẫn đến công tác xác minh, điều tra, thu thập chứng cứ xử lý đối tượng gặp nhiều khó khăn”, bà Ngọc cho hay.
Hơn thế nữa, hầu hết nạn nhân mua bán người là nữ từng bị bóc lột tình dục thường e ngại, xấu hổ, sợ kỳ thị nên đa số không dám tố giác tội phạm. Trường hợp khác, nạn nhân không còn cơ hội, khả năng để trình báo với cơ quan chức năng. Họ là nạn nhân mua bán người để lấy mô, bộ phận cơ thể, có những nạn nhân phải bỏ mạng nơi xứ người.
“Thậm chí, đối tượng phạm tội còn tiếp cận người nhà nạn nhân để thỏa thuận, đền bù nhằm bưng bít thông tin. Sau khi nạn nhân bị bán trốn thoát trở về, thấy người nhà mình đã nhận tiền đền bù rồi thì họ không tố giác với cơ quan chức năng nữa, phần vì bản thân họ và gia đình cũng không am hiểu pháp luật”, bà Ngọc thông tin.
Ngoài ra, còn một nhóm nạn nhân bị bán ra nước ngoài dưới hình thức xuất khẩu lao động nhưng sau đó là bóc lột, cưỡng bức lao động. Vì những khoản vay nợ để có thể xuất khẩu lao động, họ không dám trình báo với cơ quan chức năng, cam chịu ở lại làm việc để trả hết nợ cho chính các đối tượng phạm tội.
Chính vì vậy vụ việc không bị bại lộ, những lao động khác lại tiếp tục bị bán đi các nước khác nhau, phải làm việc trong môi trường tồi tệ, độc hại, làm nhiều giờ, bị quỵt lương, bị ngược đãi và cưỡng bức lao động.
Một số trường hợp khác, người bị hại tiến hành tố giác tội phạm nhưng lại hết thời hiệu truy cứu của vụ án hình sự.
“Vì những lý do trên, số vụ mua bán người được phát hiện và khởi tố ít hơn rất nhiều so với con số thực tế. Điều này khiến cho tội phạm vẫn âm thầm hoạt động, mở rộng địa bàn, hình thức tinh vi khiến cho không ít nạn nhân lại rơi vào cạm bẫy của nạn mua bán người”, bà Ngọc cảnh báo.
N. Huyền