Thuỷ sản Việt Nam vào Top 10 thế giới
![]() |
Hội nghị tuyên truyền, nhân rộng các điển hình tiên tiến, nhân tố mới về phát triển kinh tế biển, đảo năm 2012 do Ban Tuyên giáo TƯ tổ chức tại Đà Nẵng ngày 14/11 - Ảnh: HC |
Quốc gia hàng đầu thế giới về nuôi trồng, xuất khẩu thuỷ sản
Theo Phó Vụ trưởng Vụ Thông tin đối ngoại và Hợp tác quốc tế (Ban Tuyên giáo TƯ) Đặng Công Minh, nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của nước ta gắn với biển như dầu khí, hàng hải, du lịch biển... Trong đó, ngành thuỷ sản có vị trí đặc biệt quan trọng để đưa nước ta thành quốc gia mạnh về kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế theo tinh thần Nghị quyết TƯ 4 (khoá X) về "Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020".
Giám đốc Trung tâm Thông tin thuỷ sản (Tổng cục Thuỷ sản, Bộ NN-PTNT) Dương Long Trì cho biết thêm, Việt Nam có chiều dài bờ biển 3.260km và vùng biển đặc quyền kinh tế trên 1 triệu km2, gấp hơn 3 lần diện tích đất liền. Trong vùng biển có hơn 3.000 đảo lớn nhỏ, trong đó có nhiều đảo có dân cư như Vân Đồn, Cát Bà, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc… vừa là ngư trường khai thác hải sản thuận lợi, vừa có nhiều điều kiện tự nhiên để phát triển nuôi biển và xây dựng các khu căn cứ hậu cần nghề cá.
Vùng biển Việt Nam thuộc ngư trường Trung Tây Thái Bình Dương, có nguồn lợi hải sản phong phú, đa dạng và được đánh giá là một trong những ngư trường có trữ lượng cao trong các vùng biển quốc tế, với hơn 2.000 loài cá, 225 loài tôm, 663 loài tảo, rong biển và nhiều loài hải sản quý như bào ngư, trai ngọc, sò huyết, san hô đỏ... Nghiên cứu, điều tra về nguồn lợi cho biết, trữ lượng nguồn lợi hải sản ước tính khoảng trên 5 triệu tấn, khả năng khai thác cho phép khoảng 2,2 – 2,4 triệu tấn/năm.
"Với lợi thế đó, từ chỗ chỉ là nghề phụ trong sản xuất nông nghiệp, nay thủy sản đã thành ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân, có mức tăng trưởng cao nhất trong khối nông, lâm, thủy sản (6,1% năm 2011). Thủy sản Việt Nam đã có vị trí cao trong cộng đồng nghề cá thế giới, đứng thứ 11 về khai thác thủy sản, thứ 3 về nuôi thủy sản. Đặc biệt, hàng thuỷ sản Việt Nam đã xuất khẩu đến 164 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Việt Nam hiện đứng thứ 4 trong 10 nước hàng đầu thế giới về giá trị xuất khẩu thủy sản" - ông Dương Long Trì nêu rõ.
Theo thống kê của Tổng cục Thuỷ sản, giai đoạn 2001 – 2010, tốc độ tăng sản lượng thủy sản là 9,89%, kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng 12,23%. Tổng sản lượng thủy sản năm 2011 đạt 5,45 triệu tấn, cao nhất từ trước tới nay. Trong đó khai thác hải sản đạt 2,3 triệu tấn, tăng 5,2 % so với năm 2010, nuôi trồng thuỷ sản đạt 2,93 triệu tấn, tăng 7,4 % so với năm 2010. Kim ngạch xuất khẩu đã vuợt mốc 6 tỉ USD, đạt 6,12 tỉ USD, tăng hơn 1 tỉ USD (21,49 %) so với năm trước (5,03 triệu USD năm 2010).
![]() |
Tàu dịch vụ hậu cần nghề cá công suất lớn vừa được ngư dân Đà Nẵng đưa vào hoạt động trong năm 2012 - Ảnh: HC |
Ngư dân góp phần giữ gìn chủ quyền biển, đảo
Đáng chú ý, theo ông Dương Long Trì, sự phát triển của ngành thủy sản đã đóng góp vào công cuộc giữ gìn an ninh, chủ quyền trên vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của đất nước. Phát triển kinh tế biển nói chung và tăng trưởng kinh tế thủy sản nói riêng đã thu hút lực lượng dân sự hiện diện thường xuyên trên biển, góp phần đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Ngược lại, việc đảm bảo an ninh quốc phòng tiếp tục tạo điều kiện để ngư dân yên tâm sản xuất, phát triển kinh tế thủy sản. Nhiều cơ chế, chính sách quản lý đã được ban hành kịp thời, góp phần duy trì và phát triển hoạt động khai thác, đảm bảo ổn định sinh kế và đời sống của ngư dân và cộng đồng dân cư ven biển, duy trì sự hiện diện dân sự của lực lượng tàu thuyền và ngư dân trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Một trong những điển hình được tuyên dương tại hội nghị là ông Lê Mến (phường Thuận Phước, Đà Nẵng), chủ tàu dịch vụ hậu cần nghề cá ĐNa 90424TS chuyên cung cấp nhiên liệu, lương thực thực phẩm, nước ngọt, thuyền viên thay thế và thu mua hải sản cho các tàu đánh bắt xa bờ trên vùng biển Hoàng Sa, đồng thời đưa thông tin về ngư trường và cung cấp những địa điểm tàu cá hoạt động đạt sản lượng cao cho các tàu lân cận.
"Với truyền thống gia đình đã có 3 đời làm hậu cần nghề cá, chúng tôi rất tâm huyết với nghề này vì nó giúp các tàu đánh bắt xa bờ có thể bám biển dài ngày hơn. Hiện mỗi ngày chúng tôi thu mua trên biển 20 - 40 tấn hải sản tươi đảm bảo chất lượng. Do nhu cầu phát triển vươn xa mở rộng ngư trường nên gia đình chúng tôi đã đóng mới thêm một tàu dịch vụ hậu cần thu mua hải sản và cung cấp nhiên liệu cho nhiều tàu cá ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng" - ông Lê Mến cho hay.
Phó Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng Trần Thọ cho biết thêm, TP đã có nhiều chính sách ưu đãi các chủ tàu vươn khơi đánh bắt xa bờ. Đến nay Đà Nẵng đã hình thành 93 tổ đánh bắt xa bờ, cung cấp miễn phí thiết bị định vị để đảm bảo thông tin với đất liền. Đáng chú ý là TP đã có 5 tàu đánh bắt xa bờ công suất lớn, trong đó có 2 tàu công suất trên 1.000CV. Mỗi tàu được hỗ trợ bình quân 600 triệu đồng để đóng mới, nâng cấp. Nhờ vậy tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Đà Nẵng những năm qua đều đạt xấp xỉ 5%.
"Có thể khẳng định, sự hiện diện dân sự của ngư dân trên biển đã và đang có vai trò quan trọng phát triển kinh tế biển gắn với nhiệm vụ bảo vệ vùng biển, đảo của Tổ quốc. Nhiều mô hình hợp tác sản xuất trên biển đã được hình thành (tổ hợp tác đoàn kết khai thác trên biển, nghiệp đoàn nghề cá, tàu mẹ - tàu con) để tổ chức dịch vụ hậu cần trên biển, hỗ trợ nhau trong hoạt động sản xuất và tìm kiếm cứu nạn khi gặp rủi ro. Đến tháng 9/2012, cả nước đã có 3.156 tổ đội sản xuất trên biển" - ông Dương Long Trì nhấn mạnh.