Tăng trưởng của ngành ngân hàng sẽ bị tác động trước những chính sách mới
Các chính sách này thể hiện sự chủ động của NHNN trong việc quản lý kinh tế vĩ mô, nhất là kiểm soát lạm phát, đồng thời sẽ có ảnh hưởng với mức độ khác nhau đến kết quả kinh doanh của các ngân hàng.
Trong đó, các ngân hàng quốc doanh nhiều khả năng sẽ gặp khó khăn hơn trong việc mở rộng biên lãi ròng, trong khi tác động lên các ngân hàng tư nhân là đa chiều và có mức độ ảnh hưởng nhẹ hơn.
Mảng cho vay bán lẻ đang đóng vai trò dẫn dắt tăng trưởng chính ở hầu hết các ngân hàng và dự kiến sẽ tiếp tục thúc đẩy tín dụng trong giai đoạn tới. Trong 9 tháng đầu năm 2019, cho vay bán lẻ mở rộng mạnh nhất tại VIB, TPBank, ACB và MB. VPBank và HDBank cũng chứng kiến sự tăng trưởng nhanh trở lại của mảng tài chính tiêu dùng kể từ quý 2 (với FE Credit) và quý 3 (với HD Saison).
Theo nhận định của Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), trong điều kiện kinh tế thuận lợi như hiện tại và các dấu hiệu phục hồi gần đây, mảng tài chính tiêu dùng sẽ duy trì tăng trưởng tích cực trong năm 2020.
Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng cũng mở rộng tín dụng bằng việc tăng cường đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, với Techcombank, MB và TPBank duy trì tỷ trọng trái phiếu doanh nghiệp so với tổng tín dụng cao hơn so với các ngân hàng khác.
Năm 2019, NIM tiếp tục cải thiện ở nhiều ngân hàng nhờ mở rộng tài chính tiêu dùng (MB), cho vay ô tô và mua nhà (TPBank), tái cơ cấu danh mục đầu tư chứng khoán nợ (Vietcombank) hay đẩy mạnh LDR (Vietcombank, HDBank). Các ngân hàng khác có NIM ổn định hoặc giảm nhẹ.
Theo VDSC, từ cuối năm 2019 hoặc đầu năm 2020, nhiều quy định mới về lãi suất, an toàn vốn, huy động, tài chính tiêu dùng đi vào hiệu lực. Các quy định này sẽ có tác động nhiều chiều đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, cụ thể như sau:
Quy định về việc giảm lãi suất tiền gửi đối với một số kỳ hạn ngắn và lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên (từ tháng 11/2019) có thể có tác động trước mắt rất khác nhau phụ thuộc vào chính sách cụ thể của từng ngân hàng.
Các yêu cầu về an toàn vốn mới (theo Thông tư 41/2016-TT-NHNN hoặc Thông tư 22/2019-TTNHNN) và việc giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn (Thông tư 22/2019-TT- NHNN) đặt ra yêu cầu chặt chẽ hơn về vốn và huy động do đó dự kiến sẽ hạn chế khả năng mở rộng NIM của các ngân hàng.
Việc áp dụng tỷ lệ LDR tối đa mới đồng bộ ở mức 85% cho tất cả các ngân hàng (Thông tư 22/2019-TT-NHNN) sẽ cho phép các ngân hàng tư nhân có thêm cơ hội đẩy mạnh tỷ lệ này (so với mức ngưỡng tối đa 80% trước đây) để cải thiện NIM. Trái lại, việc giảm tỷ lệ LDR tối đa đối với các ngân hàng quốc doanh từ 90% xuống 85% dự kiến sẽ khiến các ngân hàng này phải kiềm chế tín dụng hoặc đẩy mạnh huy động, theo đó làm ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng và biên lãi ròng.
Quy định về việc chuyển số dư tiền gửi không kỳ hạn của Kho bạc Nhà nước tại các ngân hàng thương mại về NHNN vào cuối mỗi ngày (Thông tư 58/2019/TT-BTC) nhiều khả năng sẽ ảnh hưởng đến chi phí huy động của các ngân hàng quốc doanh, nơi có tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn của Kho bạc Nhà nước cao.
Quy định quản lý chặt chẽ hơn hoạt động cho vay của các công ty tài chính tiêu dùng (Thông tư 18/2019/TT-NHNN), theo đó giảm dần tỷ lệ giải ngân trực tiếp cho khách hàng (có số dư nợ giải ngân trực tiếp tại công ty tài chính tiêu dùng đó trên 20 triệu đồng) về 30% kể từ năm 2024. Tác động của Thông tư 18 sẽ chưa đáng kể trong ngắn hạn, dù trong dài hạn nhiều khả năng sẽ có ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng và biên lãi ròng của các công ty tập trung cho vay tiền mặt như FE Credit và MCredit.
VDSC cho rằng, các quy định mới của NHNN sẽ hạn chế khả năng mở rộng biên lãi ròng của các ngân hàng quốc doanh, trong đó Vietinbank nhiều khả năng bị ảnh hưởng nhiều nhất; trong khi tác động tới các ngân hàng tư nhân sẽ là đa chiều do đó sẽ có mức độ ảnh hưởng nhẹ hơn (ACB và HDBank nhiều khả năng là những ngân hàng ít bị ảnh hưởng nhất).
Đặc biệt, các ngân hàng còn khả năng mở rộng tài chính tiêu dùng (MB, HDBank) vẫn có cơ hội cải thiện NIM hơn nữa vào năm 2020. Tuy vậy, vẫn có cơ hội cho tất cả các ngân hàng khi tăng trưởng tín dụng được duy trì tích cực khi cho vay vẫn là nguồn thu nhập chính của các ngân hàng. Bên cạnh đó, việc mở rộng tín dụng sẽ cho phép các ngân hàng bán chéo sản phẩm của họ (thẻ, thanh toán, bảo hiểm, dịch vụ trái phiếu…), từ đó đẩy mạnh thu nhập dịch vụ.
Riêng đối với các ngân hàng quốc doanh, mặc dù dự kiến sẽ gặp thêm nhiều khó khăn về NIM, nhưng khó khăn về vốn cũng đang có khả năng được tháo gỡ nhờ việc bổ sung thêm các ngân hàng quốc doanh vào danh sách đối tượng có thể được tăng vốn từ ngân sách nhà nước (theo dự thảo Nghị định 126/2017/NĐ-CP và 32/2018/NĐ-CP và việc giảm giới hạn sở hữu nhà nước từ 65% về 51% (theo Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2025), dù thời gian hiệu lực còn chưa được xác định rõ.