Quốc hội lo ngại tăng dư nợ tín dụng quá thấp
Tại kỳ họp thứ 18 UBTVQH ngày 14/5, UBKT Quốc hội cho biết, năm 2012 tổng thu cân đối NSNN tăng 2.690 tỷ đồng so với số đã báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, tuy nhiên phần tăng thu chủ yếu từ dầu thô và viện trợ không hoàn lại.
Trong khi đó thu nội địa và thu xuất nhập khẩu giảm mạnh, theo UBKT nếu không có nguồn thu thêm từ lãi dầu khí nước chủ nhà thì NSNN đã hụt thu, mất cân đối nghiêm trọng, ảnh hưởng đến nhiệm vụ chi và không giữ được bội chi ngân sách như dự toán.
Thị trường vốn và tăng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế vẫn ở mức quá thấp. Ảnh minh họa |
Có ý kiến cho rằng, mặc dù giữ được bội chi ngân sách nhà nước 4,8% GDP, nhưng cần đánh giá thực chất số đã thực chi hoặc phải chi nhưng chưa có nguồn để chi như hoàn thuế VAT nhiều hơn dự toán hơn 20.000 tỷ đồng, nợ xây dựng cơ bản hơn 90.000 tỷ đồng, chưa bố trí cấp bù chênh lệch và phí quản lý đối với Ngân hàng Phát triển và Ngân hàng Chính sách xã hội 7.250 tỷ đồng. Như vậy, tuy giữ được một số chỉ tiêu của năm 2012 đạt kế hoạch nhưng chưa thực chất và sẽ gây áp lực cho việc bố trí và điều hành ngân sách các năm sau.
UBKT Quốc hội cho rằng, việc triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 trong bối cảnh tốc độ kinh tế tăng trưởng chậm lại trong 2 năm liên tiếp, dấu hiệu suy giảm kinh tế ngày càng rõ nét hơn, nợ xấu, tồn kho, khó khăn thị trường bất động sản và khả năng hấp thụ đầu vào của khu vực sản xuất chưa được cải thiện...
Bên cạnh đó việc thực hiện tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng chưa đem lại kết quả rõ rệt, dư địa chính sách kích thích tăng trưởng bị giới hạn bởi thâm hụt ngân sách trong khi thị trường vốn và tăng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế vẫn ở mức quá thấp.
Nhận định lạm phát tiếp tục được kiềm chế, tăng trưởng quý I cao hơn cùng kỳ, các chính sách xã hội tiếp tục được quan tâm, tuy nhiên, đa số ý kiến lại cho rằng các chính sách thực hiện và kết quả đạt được vẫn chưa bảo đảm chuyển xu thế tốt hơn. GDP quý I/2013 tăng 4,89% so với cùng kỳ năm 2012, nhưng mức tăng này vẫn thấp hơn rất nhiều so với quý I/2011 (tăng 5,53%) và quý I/2010 (tăng 5,84%).
Tồn kho tiếp tục là điểm nghẽn của tăng trưởng với tỉ lệ tồn kho của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn đang ở mức cao làm ảnh hưởng đến mối quan hệ an toàn giữa các khâu sản xuất – tiêu thụ và tồn kho của sản xuất công nghiệp.
Từ cuối tháng 2/2013, NHNN đã tiến hành đấu thầu vàng miếng để ổn định thị trường vàng, với kết quả ban đầu nhưng còn nhiều luồng ý kiến khác nhau khi giá vàng trong nước và giá vàng thế giới còn chênh lệch ở mức cao và thông tin về định hướng chính sách chưa kịp thời tác động đến tâm lý xã hội.
Đối với loại hình xuất khẩu, 4 tháng đầu năm 2013 đạt gần 39,46 tỷ USD, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2012, tuy nhiên giá trị xuất khẩu trong tháng 4 giảm 12,1% so với tháng trước, trong đó xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước giảm mạnh 20%. Hoạt động xuất khẩu vẫn chủ yếu phụ thuộc vào các mặt hàng gia công từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Xuất khẩu hàng nông sản gặp nhiều khó khăn với tốc độ tăng trưởng nông lâm nghiệp và thủy sản trong quý I chỉ đạt 2,24%, là mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ một số năm gần đây.
UBKT nhận định, tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng chưa có những chuyển biến cụ thể. Một số ý kiến cho rằng, Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế sẽ khó triển khai thực hiện thành công vì phụ thuộc vào việc thực hiện các đề án thành phần, trong khi mỗi đề án thành phần do một bộ, ngành được giao chủ trì, thời điểm xây dựng và ban hành khác nhau và xong trước Đề án tổng thể nên thiếu tính kết nối.
Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, một số ý kiến cho rằng việc triển khai thực hiện chưa thực sự khẩn trương, chưa có tiêu chí phân loại theo ngành nghề, lĩnh vực; chưa thực hiện sắp xếp các doanh nghiệp hiện có thành các nhóm để có giải pháp tái cấu trúc đối với từng nhóm mà thực hiện ở từng doanh nghiệp. Trong đó lại chủ yếu tập trung vào ngành nghề sản xuất kinh doanh chính, chuyển giao nội bộ tập đoàn, tổng công ty hoặc giữa các doanh nghiệp nhà nước, chưa tạo ra động lực và áp lực để buộc các doanh nghiệp nhà nước đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc, đổi mới công nghệ.
Về tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, một số ý kiến cũng cho rằng các ngân hàng đã triển khai có kết quả bước đầu nhưng cần minh bạch thông tin, kịp thời các phương án tái cơ cấu kể cả các ngân hàng thương mại hoạt động lành mạnh và các ngân hàng thương mại hoạt động yếu kém.
Việc xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng, một số ý kiến đánh giá cao việc tăng cường trích lập dự phòng giải quyết nợ xấu và đảm bảo mục tiêu an toàn người gửi tiền. Tuy nhiên số liệu nợ xấu Ngân hàng Nhà nước thông tin ra công chúng có lúc thiếu nhất quán cũng tạo hoài nghi, tác động tâm lý xã hội.