Những câu chuyện nối dài về điện
Những đòi hỏi ngặt nghèo nhưng chính đáng
Từ rất sớm, các nhà đầu tư nước ngoài đã vào Việt Nam để khảo sát, tìm hiểu cơ hội đầu tư. Mặc dù Việt Nam có dân số đông thứ 15 thế giới, cơ hội, tiềm năng là rất lớn, nhưng đến nay chỉ có cỏn vẹn 8 nhà máy BOT có vốn đầu tư nước ngoài với tổng công suất chiếm khoảng 9,7 % công suất hệ thống là thành công. Trong số đó, Tổ hợp Phú Mỹ 2-2 được đưa vào vận hành sớm nhất, năm 2004.
Nhân đây, xin kể thêm là quá trình đàm phán với các nhà đầu tư nước ngoài trong các dự án phát điện BOT là rất khó khăn, gian khổ, quá trình từ đàm phán đến khi phát điện lên lưới thường mất trên 10 năm. Các dự án đó có vốn hàng tỷ đô la, họ phải thu xếp vốn từ nhiều nhà tài trợ, họ tính toán thời gian thu hồi vốn, lợi nhuận, rủi ro rất kỹ càng. Có nhiều điều kiện bất khả kháng như thiên tai, địch họa, hay rủi ro về chính trị hay quyền chuyển đổi ngoại tệ, lợi nhuận trên 15 %,… Đó là những đòi hỏi ngặt nghèo nhưng chính đáng mà phía Việt Nam rất khó đáp ứng.
Trong khi đó, các nhà đầu tư trong nước lớn nhất như TKV, PVN có tổng cộng 426 nhà máy điện, EVN có 20 nhà máy, GENCO 1, 2 và 3 có 37 nhà máy và các công ty tư nhân có 369 nhà máy. Loại hình nhà máy cũng rất phong phú, bao gồm nhiệt điện, thủy điện, điện mặt trời, điện gió.
Hiện nay EVN chiếm 38,5% tổng công suất, các đơn vị bên ngoài chiếm 61,5%.
Trong 3 tổng công ty phát điện GENCO thuộc EVN, thì đã có 2 là Genco 2 và 3 được cổ phần hóa. Genco 2 bán ra được 0,13%, Genco 3 bán ra được 0,87% vì lý do chính vẫn là giá đầu ra thấp, nguy cơ thua lỗ cao và vốn quá lớn.
Vài năm qua Chính phủ cho đầu tư năng lượng tái tạo với giá 9,35 cent/kwh, thu hút được nhiều nhà đầu tư, giúp tăng thêm 20.000 MW. Đây là đợt đầu tư nhanh, huy động được nguồn lực trong xã hội nhiều, nhờ đó mà đáp ứng được yêu cầu của người dùng điện phía Nam.
Như vậy, trong gần nửa thế kỷ nay, khâu phát điện được thực hiện theo đúng chủ trương của Nhà Nước là khuyến khích nhiều nhà đầu tư tham gia xây dựng, phát triển nguồn điện để đủ điện cho dân dùng. Khâu phát điện đã hoàn toàn được xã hội hóa và không còn độc quyền.
Tới đây, cần thu hút thêm nhiều nhà đầu tư tư nhân vào khâu phát điện khi Ngân hàng Thế giới gợi ý rằng, khu vực ngoài nhà nước cần đóng góp tới 80% vốn cho phát điện từ nay tới 2030.
Từ một thử nghiệm phân phối điện
Ngay từ năm 2005, Công ty điện lực Khánh Hoà đã được thí điểm cổ phần hóa. Sau đợt thử nghiệm đó, EVN từng đề xuất cổ phần hóa tất cả các công ty điện lực tỉnh nhưng cấp trên cho rằng, vùng nông thôn chịu nhiều gian khổ trong chiến tranh, không có điện là thiệt thòi cho dân, cần phải điện khí hóa.
Lúc đó, mới chỉ 50-70% các vùng nông thôn cả nước có điện, và đây là sự tri ân của Nhà Nước đối với đồng bào đã cống hiến trong các cuộc kháng chiến.
Nếu cổ phần hóa, các cổ đông có thể không đồng ý đầu tư điện nông thôn vì suất đầu tư trên hộ dân rất cao, giá điện rẻ, lỗ nặng và vốn đầu tư hầu như không thu hồi được.
Sau khi bàn tính, phương án này không được chấp nhận và trách nhiệm tiếp tục đặt lên vai EVN. Cho đến nay, EVN đã đưa điện về 100% số xã và 99,58% số hộ nông thôn, cơ bản điện khí xong nông thôn và rất thuận lợi cho việc cổ phần hóa.
Chỉ số tiếp cận điện năng của Việt Nam đã nhảy vọt rất nhanh, từ khoảng 160 lên vị trí 25 trong bảng xếp hạng các quốc gia trên thế giới của Ngân hàng Thế giới.
Xã hội hóa truyền tải
Hệ thống truyền tải điện nói nôm na giống như động mạch chủ trong cơ thể người để đảm bảo an ninh năng lượng. Ở đại đa số quốc gia, hệ thống này do Nhà nước nắm giữ, nhưng cũng có một số quốc gia đã tư nhân hóa lưới truyền tải.
Những năm vừa qua, Nhà nước đã cho phép Tập đoàn Trung Nam và 3 đơn vị khác xây dựng lưới truyền tải siêu cao áp đường dây và trạm 500kv. Từ trước đến nay các khách hàng cũng tự xây dựng rất nhiều đường dây và trạm 110 kv và 220 kv để đấu nối vào lưới điện quốc gia. Luật Điện lực cũng đã quy định về điều này.
Tóm lại, người làm điện không muốn và không độc quyền cả 3 khâu phát điện, truyền tải điện và phân phối điện. Nhà nước giao EVN quản lý từng cấp độ trong ba khâu trên và EVN phấn đấu làm tốt để đảm bảo lợi ích Nhà nước và nhân dân.
Nhập khẩu điện từ các nước láng giềng
Hiện nay EVN mua bán điện với 3 nước là Lào, Campuchia và Trung Quốc, đây là những chia sẻ quí báu, hỗ trợ nhau giữa các nước láng giềng.
Với Lào, EVN mua điện cao áp, giá mua từ nhà máy Xekaman 3 là 5,62 cent/1kwh, từ nhà máy Xekaman 1 là 1,493 đ/1kwh. Ngược lại, EVN bán điện, cấp điện áp 35-22kv cho vùng biên giới vớ giá 9,48 cent/1kwh.
Với Campuchia, EVN bán điện cao áp 220 kv đến Phnom Penh với giá theo giờ và theo mùa; giá mùa khô và giờ cao điểm là 12,87 cent/1 kWh; giờ bình thường là 11,44cent/1kwh; còn giờ thấp điểm là 9,72 cent/1 kWh. Mùa mưa thì giá thấp hơn một ít.
Với Trung Quốc, trong khoảng thời gian 2005-2006, theo tính toán thì 6 tỉnh phía Bắc phải cắt điện vì thiếu điện nghiêm trọng. Đây là những tỉnh biên giới có liên quan đến an ninh và đời sống người dân vùng cao, EVN tính sơ bộ 2 phương án cấp điện:
Phương án 1 là lắp 6 nhà máy diesel tại 6 tỉnh với vốn đầu tư khoảng 1.000-1.500 tỷ đồng, chạy dầu DO, giá thành 2.500-3.000đ/1 kWh, thời gian thiết kế, đặt hàng thiết bị, xây dựng khoảng 2 -3 năm.
Phương án 2 là xây dựng nhà máy chạy than, thời gian xây dựng 5 -6 năm, vốn đầu tư khoảng 7.000-9.000 tỷ đồng, công suất 1.000 MW để kết hợp cấp điện cho 1 số địa phương khác ở phía Bắc.
Tuy nhiên, cả 2 phương án đều không khả thi vì số vốn đầu tư lớn và không kịp tiến độ.
Trước tình hình đó, EVN đàm phán mua điện từ Trung Quốc và rất may là họ rất nhiệt tình và sẵn sàng xây dựng đường dây 220 kv cấp điện cho Việt Nam.
Hồi đó, cả hai bên làm việc liên tục trong 3 ngày để ký các thỏa thuận về xây dựng, đấu nối lưới, phương thức vận hành, các điều khoản hợp đồng mua bán điện. Ngay sau đó, hai bên rải quân khảo sát, phóng tuyến, thiết kế xong móng nào là duyệt ngay để thi công dù địa hình xây dựng cả 2 bên đều hiểm trở. Hai bên trao đổi, đôn đốc, đưa ra các biện pháp thi công sáng tạo và táo bạo nhất, cùng nhau cùng xây dựng đường dây điện mỗi bên, cuối cùng cả 2 bên đều đạt tiến độ.
Phía Việt Nam có 2 xuất tuyến là Hà Giang đi Mutalang và Lào Cai đi Guman. Tổng giá trị xây dựng 2 đường dây 220kv phía Việt Nam là khoảng 215 tỷ đồng.
Hợp đồng mua bán điện có hiệu lực thi hành ngay, với giá có thể nói là hữu nghị 4,5 cent/1kwh, hàng năm có tính trượt giá theo thông lệ quốc tế. Điều đáng mừng là 6 tỉnh phía Bắc không bị cắt điện.
Đến nay, việc này vẫn duy trì, EVN đàm phán mua sản lượng điện 220 kv theo mùa, mùa khô giá 6,32 cent/1 kWh, mùa mưa giá 5.17 cent/1kwh, thấp hơn so với giá phát nhiệt điện FO, DO và thấp hơn so với giá nhiệt điện than và điện mặt trời 9,35 cent/1kwh.
Trong khi đó, mức giá trên được duy trì trong lúc họ cũng đang thiếu điện. Về lâu dài, EVN vẫn đang tìm giải pháp phát triển các nguồn điện để chủ động cung cấp điện.
Những cải cách khẩn cấp cần thực thi
Mấy ngày hôm nay, tôi cứ suy nghĩ mãi về câu chuyện của một thợ điện. “Trưa em chạy về ăn vội miếng cơm, vừa ngồi thì con trai khóc nói, mấy đứa bạn bảo cơ quan bố mày lãi mà kêu lỗ, lại còn cắt điện nhà tớ, không thèm chơi với con. Nói xong nó khóc bắt đền em, hai bố con ôm nhau khóc. Bọn em làm công ăn lương, đâu có tội tình gì đâu mà bị làm khổ thế này. Mà họ hàng, bà con lối xóm, bạn bè cũng nhìn nhà em bằng nửa con mắt, cứ như nhà em ăn cắp cái gì”. Thật tội nghiệp cho anh và cháu nhỏ!
Đang lúc thiên tai, ảnh hưởng địch hoạ, thiếu điện, trời rất nắng nóng, lòng người khó chịu, thêm những ý kiến gay gắt khi chưa đủ thông tin thì chỉ làm lòng dân bức xúc thêm.
Với tình hình đầu tư chậm và giá điện như hiện nay, nguy cơ thiếu điện có thể tiếp diễn, thì việc thành lập thị trường điện là cấp thiết để giúp giải quyết được vấn đề thiếu điện. Bài học thành công của phát triển thị trường điện tại Philippines và Úc cho thấy rất rõ.
Tôi cho rằng, cần nhanh chóng có chủ trương thiết lập thị trường điện tại một tổng công điện lực hoặc chọn một khu vực, thậm chí một miền ra để thực hiện thí điểm cùng lúc cả 2 bước mua buôn điện cạnh tranh và bán lẻ điện cạnh tranh. Hiện nay cũng đã có 1 vài công ty tư nhân về phân phối điện bán lẻ điện. Họ đang cạnh tranh với công ty điện lực Nhà nước.
Sau 1 năm thí điểm thì tiến hành tổng kết, đánh giá và hoàn chỉnh hệ thống quản lý, sau đó triển khai toàn quốc.
Việc thực hiện thị trường điện là làm theo luật Điện Lực 2004 và theo Quyết định 63 năm 2013 của Thủ Tướng Chính phủ. Bây giờ chỉ còn là bước triển khai thực hiện, không làm bây giờ thì bao giờ mới làm?
Ngân Hàng Thế giới và các đối tác phát triển cũng có đôi lần gợi ý tài trợ nghiên cứu thị trường điện. Chúng ta cần sự hợp tác đó.
Tất cả các mặt hàng đều theo thị trường, duy nhất chỉ có sản phẩm điện không theo thị trường thì ngành điện nói chung không thể tồn tại ổn định và phát triển được.
Trên đời này không có cái gì hoàn hảo cả, cuộc sống luôn vận động, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để hoàn chỉnh chắc chắn sẽ mở ra hướng mới cho ngành điện, đừng để tình hình như hiện nay kéo dài.
Hơn bao giờ hết, rất mong tất cả bàn tay khối óc tập trung giúp EVN và ngành điện Việt Nam có các kế sách, giải pháp cứu điện năm nay và những năm tới.
Đào Văn Hưng