Lật tẩy trò "viết lại sự thật" về Biển Đông của Trung Quốc
Bày đủ trò để "viết lại lịch sử"
Các quan chức Bắc Kinh đang muốn “gieo rắc” tình yêu khắp nơi, họ đi khắp thế giới để kể một câu chuyện “huyễn hoặc” rằng Trung Quốc là một diễn viên "đức hạnh" trong “bộ phim” về Biển Đông, và rằng lý do duy nhất cho tất cả những rắc rối ở khu vực này đó là do cánh tay can thiệp của Washington, tác động vào các nước Philippines, Việt Nam và Malaysia.
Từ London tới Jakarta, các quan chức Trung Quốc tìm mọi cách gặp gỡ các nhà ngoại giao Đông Nam Á để “kể lể” câu chuyện của họ. Bắc Kinh cũng tìm cách lôi kéo Brunei, Campuchia và Lào vào một cái gọi là tuyên bố chung ủng hộ vị thế của Trung Quốc trong cuộc tranh chấp này.
Không may cho Bắc Kinh, Campuchia và Lào ngay lập tức từ chối lời đề nghị và Brunei thì vẫn giữ im lặng như mọi khi.
Gần đây, có một bài báo trên National Interest của hai nhà ngoại giao nổi tiếng của Trung Quốc, là Fu Ying, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Trung Quốc và Wu Shicun, Chủ tịch Viện nghiên cứu Đông Nam Á.
Bài báo rất thú vị bởi cái cách tác giả đúc kết lại câu chuyện trên Biển Đông qua một thời kỳ, qua đó rất nhiều câu chuyện hoang đường trước đó đã bị xóa tan bởi một nghiên cứu lịch sử mới. Tài liệu lịch sử mà bài báo nói đến khá chính xác và không tồi tệ như những thông tin mà chính quyền Trung Quốc sử dụng để tuyên truyền trước đó.
Tuy nhiên, lịch sử này vẫn bị viết lại và một số sự thật đã bị bỏ qua để biến Trung Quốc trở thành nạn nhân của "sự phản bội mang màu sắc đế quốc". Giọng điệu hòa giải và ngọt xớt này dường như là để “che mắt” nhiều người, những người không biết đầy đủ sự thật.
![]() |
Các thuyền viên của tàu đánh cá Trung Quốc đang cố tình gây hấn với tàu USNS Impeccable của Mỹ năm 2009. Nguồn: Hải quân Mỹ |
Song, câu chuyện này lại không thuyết phục được nhiều người Mỹ và cả các chính phủ ở Đông Nam Á, vốn đã chứng kiến quá nhiều hành động thù địch của Trung Quốc trong hơn 7 năm qua. Dường như, câu chuyện mà Bắc Kinh tô vẽ chỉ để qua mặt các quốc gia Đông Nam Á không tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông, cùng với các quan chức ở những nơi khác trên thế giới, những người không có nhiều thông tin về việc tranh chấp này. Mục đích của Bắc Kinh là cho thế giới thấy rằng chỉ có các nước ASEAN tuyên bố chủ quyền Biển Đông và chính hành động của họ đã tạo nên căng thẳng hoặc là do họ bị “dắt mũi” bởi Washington.
Có rất nhiều phần trong bài báo của hai tác giả Fu-Wu mà một độc giả hiểu biết có thể phản bác nhưng mấu chốt của câu chuyện này là những sự kiện xảy ra năm 2009. Bà Fu và ông Wu đang cố viết lại lịch sử năm quan trọng này để xóa đi những hành động của Trung Quốc là nguồn cơn cho mọi mâu thuẫn hiện tại. Theo bài báo này, “tình hình chung đã được kiểm soát từ trước năm 2009”.
Đổ lỗi cho Obama và chính phủ Mỹ
Điểm quan trọng trong câu chuyện của Fu-Wu là chính quyền Obama mới, đặc biệt là có sự tham gia của “người đàn bà hiếu chiến” Hillary Clinton, đã cung cấp vũ khí cho Philippines và Việt Nam để thực hiện các hành động khiêu khích. Họ cũng đổ lỗi một phần cho “hạn cuối cùng của Ủy ban Liên Hiệp Quốc về các giới hạn của thềm lục địa (CLCS)” để các quốc gia đưa ra các tuyên bố hàng hải của mình. Tuy nhiên, hai nhà ngoại giao này còn khẳng định như đinh đóng cột rằng “một nhân tố chính gây nên mọi rắc rối là chính sách chiến lược tái cân bằng châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ.
Tác giả của bài báo sau đó còn ám chỉ rằng việc tái cân bằng của Mỹ là lý do tại sao Philippines đề ra Luật đường ranh giới hàng hải mới vào tháng 3/2009 và tại sao Malaysia và Việt Nam đều trình tuyên bố chủ quyền chung lên UNCLCS vào tháng 5. Điều này chẳng có ý nghĩa gì. Cả hai hành động trên đều nằm trong lộ trình báo cáo của CLCS, đã được Liên Hiệp Quốc thiết lập nên từ hàng thập kỷ trước. Luật ranh giới hàng hải của Philippines là kết quả sau nhiều năm thảo luận và trưng cầu dân ý trong nước. Theo một nguồn tin ngoại giao, Việt Nam và Malaysia đã bắt đầu thảo luận về tuyên bố chung từ năm 2007, trước khi Washington có bất kỳ kế hoạch tái cân bằng nào.
Nguyên nhân khiến Malaysia và Việt Nam tiến hành các cuộc thảo luận trên là việc Trung Quốc gia tăng các tuyên bố chủ quyền vô lý của mình trong năm 2007, trái ngược hoàn toàn với thông tin của bà Fu và ông Wu rằng tình hình đã được kiểm soát trước năm 2009. Bắc Kinh đã xâm nhập trái phép vào vùng biển mà các quốc gia Đông Nam Á coi đó là lãnh thổ của nước mình, sự việc này có liên quan trực tiếp đến bà Fu.
Vào ngày 18/5/2007, ngay sau khi trở thành đại sứ Trung Quốc tại Vương quốc Anh, bà Fu đã tới thăm trụ sở của BP ở London và nói với ban lãnh đạo tập đoàn này rằng Trung Quốc không thể đảm bảo an toàn cho khoản đầu tư 4 tỷ USD của BP ở nước này nếu như BP vẫn tiếp tục thực hiện các dự án với Việt Nam ở vùng lãnh hải tranh chấp. Bà Fu từng đề cập lại sự kiện này trong một hội thảo ở Bắc Kinh năm 2014 và cho biết: “Tôi rất yêu quý BP và tôi không muốn tập đoàn này chịu tổn thất”.
BP chỉ là một trong một số công ty dầu khí nước ngoài chịu áp lực nặng nề từ phía chính quyền Trung Quốc trong giai đoạn 2007-2008, buộc họ phải ngừng các hoạt động ở các khu vực mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền bên ngoài bờ biển Việt Nam và Malaysia. Đây là nguyên nhân thật sự khiến hai quốc gia Đông Nam Á phải tiến hành đệ đơn lên CLCS.
Câu chuyện của Fu-Wu có thể cho rằng vụ việc năm 2009 là kết quả của việc Mỹ gây áp lực bằng cách đẩy nhanh tiến trình “chính sách tái cân bằng” châu Á lên hơn 2 năm. Bà Hillary Clinton trở thành Ngoại trưởng từ ngày 21/1/2009 nhưng các nhân vật cốt cán khác trong nội các của ông Obama lại gia nhập sau đó, ví dụ như ông Derek Mitchell, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương nhậm chức ngày 26/6. Mỹ ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác với ASEAN vào ngày 22/7, tuy nhiên phải đến cuối năm 2011 Washington mới đưa ra tuyên bố xoay trục chính thức.
Trên thực tế, hành động của Trung Quốc đã khiến chính phủ các nước Đông Nam Á quan ngại từ trước khi chính quyền ông Obama hoạt động. Buổi hội thảo tổ chức tại Washington của các chuyên gia CSIS hồi tháng 9/2008 đã chứng minh điều đó. Nhưng có một sự kiện quan trọng năm 2009 khiến các nước ASEAN lo lắng hơn nhưng phía Bắc Kinh lại luôn phủ nhận. Đó là vào ngày 7/5/2009, để đáp trả lại việc đơn đệ trình của Việt Nam và Malaysia, Trung Quốc đã gửi một bản sao tấm bản đồ hình chữ U (hay còn gọi là đường lưỡi bò) lên CLCS.
Đây là lần đầu tiên Trung Quốc thừa nhận tuyên bố chủ quyền đầy tham vọng của mình lên một diễn đàn quốc tế. Cho đến nay, các quốc gia khác vẫn chỉ coi đó là một tài liệu vô nghĩa lưu hành trong nội bộ Trung Quốc. Trên thực tế, trong nhiều năm qua, việc người nước ngoài mang tấm bản đồ này ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc là phạm pháp và nó được coi là một bí mật quốc gia. Chính hành động ngang nhiên này của Bắc Kinh đã gióng lên một hồi chuông cảnh báo cho các quốc gia Đông Nam Á, cần phải tăng cường hành động cũng như nhờ đến sự can thiệp của các cường quốc thế giới như Mỹ.
Bài viết của hai nhà ngoại giao nói trên cho thấy họ hoàn toàn không hiểu được vị thế của các bên khác tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông. Đối với họ, mọi thứ Trung Quốc làm đều đúng đắn và có đạo đức, vì vậy bất kỳ ai phản đối cũng đều sai. Gần đây, một nhà ngoại giao Đông Nam Á cho biết: “Trung Quốc có thể chưa phải là một cường quốc nhưng dường như nước này đã có đầy đủ tính cách của một kẻ tự cao tự đại”.
Tuy nhiên, điều đáng ngại ở đây là đối với những ai chưa có thông tin đầy đủ về hành động của Trung Quốc trong khoảng thời gian 2007-2009 có thể hiểu nhầm câu chuyện trên. Rõ ràng, các bài báo PR kiểu này của Bắc Kinh không giúp gì cho việc gỡ rối các tranh chấp trên Biển Đông. Cho đến nay, chỉ có duy nhất một chính quyền có vẻ như tin câu chuyện của Trung Quốc, đó là Gamibia. Nhưng Bắc Kinh vẫn hy vọng sẽ có thêm nhiều “con mồi” mắc bẫy tuyên truyền của mình.
Bài viết thể hiện quan điểm của Bill Hayton, chuyên gia của Chatham House (Viện nghiên cứu quốc tế Hoàng gia Anh) và là tác giả của cuốn “Biển Đông: Cuộc chiến quyền lực ở châu Á”. Nội dung được thực hiện qua tham khảo Tạp chí National Interest. National Interest được thành lập vào năm 1985. Tạp chí thường tập trung vào vấn đề chính sách đối ngoại và những lợi ích quốc gia của Mỹ.