Khó khăn nhất để phát triển kinh tế biển là người dân thiếu nhận thức về biển
Cụ thể, nhận thức về vai trò và vị trí của biển và kinh tế biển của các cấp cũng như người dân còn chưa đầy đủ, quy mô kinh tế biển còn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng, nhận thức và mô hình phát triển kinh tế biển đảo chưa đầy đủ, vẫn tập trung vào thế mạnh của đất trên đảo hơn là biển, chưa có mô hình khai thác các đảo nhỏ hoang sơ, cơ cấu ngành nghề kinh tế biển chưa hợp lý, chưa chuẩn bị điều kiện để vươn ra vùng biển quốc tế.
Ô nhiễm môi trường là một trong những thách thức phát triển kinh tế biển |
Cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu kém, lạc quan, manh mún, thiết bị chưa đầy đủ nên hiệu quả sử dụng thấp: Các cảng biển, thiết bị hệ thống đường bộ cao tốc chạy dọc ven biển để nối liền các thành phố, khu kinh tế, khu công nghiệp, sân bay ven biển nhỏ bé thành một hệ thống kinh tế biển liên hoàn.
Hội chứng phát triển tràn lan các khu kinh tế ven biển đang khiến cho đầu tư không tập trung. Trong mô hình phát triển các khu kinh tế ven biển nói riêng và kinh tế biển nói chung đều thiếu “đầu tàu” không áp dụng các quy luật “lan tỏa” trong phát triển dẫn đến thể chế chưa rõ ràng và đẳng cấp chưa tương xứng, đẳng cấp công nghệ với các khu kinh tế biển thấp, không hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế lớn.
Hệ thống cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ biển, đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển, đào tạo nhân lực cho kinh tế biển, các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo biển, thiên tai biển, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn ven biển còn nhỏ bé, trang bị thô sơ, năng lực yếu kém. Các phương thức quản lý biển mới, tiên tiến còn chậm được nghiên cứu, áp dụng như quản lý không gian biển, quy hoạch không gian biển bao gồm hải đảo và vùng ven biển, giống như quy hoạch sử dụng đất, áp dụng trên đất liền. Đặc biệt chú ý nghiên cứu và chuyển giao công nghệ biển tiên tiến.
Tình hình khai thác, sử dụng biển và hải đảo chưa hiệu quả, thiếu bền vững do khai thác tự phát, không tuân thủ quy định biển đảo, làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn, lợi ích trong sử dụng đa ngành ở vùng ven biển, biển và hải đảo.
Phương thức khai thác biển chủ yếu vẫn dưới hình thức sản xuất và đàu tư nhỏ, sử dụng công nghệ lạc hậu. Bên cạnh đó còn nghiêng về ưu tiên khai thác tài nguyên biển ở dạng vật chất, không tái tạo, các giá trị chức năng phi vật chất và có khả năng tái tạo của hệ thống tài nguyên biển còn ít được trú trọng như: Giá trị vị thế của các mảng không gian biển, ven biển và hải đảo, giá trị dịch vụ của các hệ sinh thái, thậm chí các giá trị văn hóa biển. Cách tiếp cận “nóng’ trong khai thác tài nguyên biển đang là hiện tượng phổ biến ở các lĩnh vực kinh tế biển, trí trọng nhiều đến sản lượng, số lượng, ít chú ý đến chất lượng và lợi ích lâu dài của các dạng tài nguyên.
Ngoài ra, môi trường biển bị biến đổi theo chiều hướng xấu. Ngày càng nhiều chất thải không qua xử lý từ các lưu vực sông và vùng ven biển đổ ra biển liên quan đến phát triển kinh tế xã hội. Một số khu biển ven bờ và cửa sông bị ô nhiễm dầu, chất hữu cơ liên quan đến chất thải sinh hoạt và du lịch dẫn đến hiện tượng thủy triều đỏ xuất hiện ngày càng nhiều với quy mô rộng, ô nhiễm xyanua liên quan đến tình trạng đánh bắt hải sản, hàm lượng kẽm ở các khu vực đóng và sửa chữa tàu biển thường cao hơn liên quan đến “nhân độc tố kẽm” trong thành phần của sơn chống hà bám tàu biển.
Các nguồn thải ra biển đều chưa được xử lý và quản lý tốt nên xảy ra các sự cố về thảm họa môi trường biển nhiều hơn. Đây chính là sức ép lớn lên môi trường, hệ sinh thái và tài nguyên biển nước ta.
Ngoài thiên tai xảy ra thường xuyên, Việt Nam còn là 1 trong 5 nước chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, xâm nhập mặn trước hết là vùng ven biển và các đảo nhỏ.
Hơn nữa, biển Đông còn là nơi xảy ra tranh chấp biển đảo kéo dài, phức tạp và khó lường do các tuyên bố đơn phương và hành động thiếu trách nhiệm, thiếu thượng tôn pháp luật của các cường quyền nước lớn.