Bộ Tài chính lên tiếng vụ DN xăng dầu "đút túi" ngàn tỷ do lệch thuế
Bản thông cáo dài tới gần 3 trang được Bộ Tài chính gửi tới báo chí trưa muộn ngày 19/3, nêu quan điểm của Bộ này quanh việc doanh nghiệp xăng dầu đút túi ngàn tỷ do chênh lệch thuế suất nhập khẩu mặt hàng xăng dầu thời gian qua.
Theo Bộ Tài chính, các mức thuế suất nhập khẩu ưu đãi đặc biệt với xăng dầu đang trong lộ trình giảm dần, đặc biệt giai đoạn 2016- 2020, khi thực hiện các cam kết tại các Hiệp định thương mại tự do (FTA).
“Do thời gian đàm phán từng hiệp định tại từng thời điểm khác nhau nên việc chênh lệch thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) và thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định là tất yếu.
Trong 11 hiệp định song phương, khu vực, có một số hiệp định, mặt hàng xăng dầu thuộc danh mục “loại trừ” (không có nghĩa vụ cắt giảm) , nhưng có một số hiệp định đã được cắt giảm với mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt năm 2016.
Thừa nhận chênh lệch trong cách tính thuế suất đối với giá cơ sở mặt hàng xăng dầu, Bộ Tài chính sửa sai bằng cách giảm thuế một số mặt hàng |
Và nếu so sánh thì mức thuế nhập khẩu ưu đãi MFN của mặt hàng xăng dầu hiện nay đang cao hơn so với mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các FTA này. Tuy nhiên, để được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt thì hàng hoá nhập khẩu từ các nước này phải đảm bảo điều kiện về xuất xứ (C/O), về điều kiện vận chuyển...
“Thực tế thời gian qua, không phải tất cả hàng hoá đều nhập khẩu từ các nước có ký Hiệp định FTA, và cũng không phải tất cả hàng hoá nhập khẩu từ các nước có ký FTA đều được hưởng theo mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt. Ngoài ra hàng hoá nhập khẩu từ Singapore, Hàn Quốc về tới Việt Nam cần tốn thêm khoản chi phí về vận chuyển và bảo hiểm chiếm khoảng 6-7% giá xăng dầu nhập khẩu”- Bộ Tài chính khẳng định.
Cụ thể trong năm 2015, số thuế (thuế nhập khẩu, thuế GTGT, thuế TTĐB) đã thu từ xăng dầu nhập khẩu là 35.923 tỷ đồng, nhưng thực tế số thuế hoàn theo chứng từ doanh nghiệp nộp bổ sung C/O mẫu D (theo Biểu thuế Atiga) là 3.502 tỷ đồng, chiếm 9,75% tổng số thuế đã nộp. Tuy nhiên, số liệu hoàn thuế nhập khẩu này chỉ là số liệu sơ bộ vì có thể tiếp tục được hoàn trong các tháng tiếp theo .
Thế nhưng, một lần nữa cơ quan này thừa nhận, “mức thuế MFN cao hơn mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt tại một số FTA, mà mức thuế nhập khẩu tính trong giá cơ sở điều hành giá bán lẻ xăng dầu lại tính theo mức thuế MFN đến thời điểm này không còn phù hợp”.
Do đó, ngày 17/3 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 48/2016/TT-BTC và có hiệu lực thi hành từ ngày 18/3/2016 quy định mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với xăng dầu. Theo nội dung Thông tư này thì mặt hàng xăng sẽ giữ nguyên mức 20%.
Lý giải nguyên nhân vẫn giữ nguyên mức thuế đối với mặt hàng xăng, Bộ Tài chính nêu quan điểm, vì mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Biểu Atiga là 20%, chỉ có mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Biểu Việt Nam-Hàn Quốc là 10%, nhưng là mức mới được quy định. Thực tế xăng nhập khẩu từ Hàn Quốc chưa nhiều và chưa có thông tin về chứng nhận xuất xứ C/O đối với loại hàng hoá nhập khẩu này.
Như vậy, với mức thuế xăng không đổi, cách tính giá cơ sở mặt hàng này sẽ không có gì thay đổi trong kỳ điều hành tới đây của Liên Bộ Tài chính công thương.
Cũng theo Thông tư 48 thì các mặt hàng dầu diesel, dầu hoả, mazut, nhiên liệu bay giảm từ 10% và 13% xuống 7%. Bộ này trần tình, giảm thuế dầu do thực tế hàng hoá nhập khẩu từ Singapore, Hàn Quốc về tới Việt Nam cần tốn thêm khoản chi phí về vận chuyển và bảo hiểm chiếm khoảng 6-7% giá xăng dầu nhập khẩu, tương đương với mức thuế nhập khẩu ưu đãi là 7%.
Cùng với việc điều chỉnh giảm mức thuế MFN đối với mặt hàng xăng dầu, Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ Công Thương có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ, và đã được Thủ tướng Chính phủ đồng với phương án xác định mức thuế nhập khẩu tính trong giá cơ sở điều hành giá bán lẻ xăng dầu theo mức bình quân gia quyền của các Biểu thuế (MFN và FTA), tỷ trọng xăng dầu nhập khẩu từ các nước ký Biểu thuế FTA được xác định theo quý (dùng số liệu của quý trước để tính cho quý sau) do Tổng cục Hải quan tổng hợp, xác định qua hệ thống hải quan điện tử (đảm bảo tính chính xác, tin cậy).
Việc dùng mức thuế nhập khẩu bình quân gia quyền sẽ đảm bảo sát với thực tế hàng hoá nhập khẩu từ các nguồn khác nhau của doanh nghiệp xăng dầu, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng, doanh nghiệp và Nhà nước.
Thừa nhận sự chênh lệch giữa mức thuế MFN và mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt từ các FTA,