Biển Đông nhìn từ cuộc kháng Pháp 155 năm trước (phần 2)
![]() |
Bức tượng danh tướng Nguyễn Tri Phương trong khuôn viên di tích quốc gia thành Điện Hải (Ảnh: HC) |
Phần 2: Từ "Vọng hải đài" nhìn ra biển Đông
Thưa ông, khi nổ phát súng đầu tiên đánh Đà Nẵng ngày 1/9/1858, liên quân Pháp - Y Pha Nho đã bắt đầu từ hướng biển. 107 năm sau, tháng 3/1965, quân đội viễn chinh Mỹ cũng tấn công vào Đà Nẵng để bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, và cũng bắt đầu từ hướng biển. Từ sự "trùng hợp" lịch sử đó có thể đem lại cho chúng ta một nhận thức như thế nào đối với vấn đề biển Đông trong bối cảnh phức tạp như hiện nay?
Ông Bùi Văn Tiếng: Tôi đã nhiều lần nói, núi ven biển có độ cao để có thể đặt một đài quan sát nhìn ra hướng biển thì ở đất nước mình có rất nhiều. Nhưng duy chỉ Đà Nẵng mới có "Vọng hải đài" ở Ngũ Hành Sơn. Đấy là sáng kiến của vua Minh Mạng. "Vọng hải đài" nghĩa là nhìn biển từ xa. Rõ ràng là trong tư duy của vị vua nhà Nguyễn, có thể nói là một người rất gắn bó với Ngũ Hành Sơn, gần như là tác giả về "quy hoạch đô thị" của khu vực Ngũ Hành Sơn, vua Minh Mạng quả tình đã có những cống hiến trong toàn bộ cuộc phòng thủ chiến lược đối với Đà Nẵng.
Điều đó có nghĩa là từ Gia Long cho đến Minh Mạng đã thấy rõ vai trò chiến lược của cửa biển Đà Nẵng. Tất nhiên, ta đã thấy thì phía đối phương cũng thấy. Và vì vậy không phải ngẫu nhiên mà cả Pháp và Mỹ đều chọn Đà Nẵng như là hướng tấn công chiến lược để nuốt chửng Đại Nam thời nhà Nguyễn và nước Việt Nam thời hiện đại. Dùng Đà Nẵng làm cửa ngõ, dùng Đà Nẵng làm bàn đạp để tiến chiếm những vị trí khác trên đất nước ta.
Với vị trí địa chính trị, địa quân sự như vậy thì rõ ràng Đà Nẵng cũng có thể là mục tiêu cho những cuộc xâm lược mới. Tất nhiên bây giờ người Đà Nẵng đứng trên "Vọng hải đài" nhìn ra biển, không chỉ để cảnh giác với mọi mưu toan xâm lược từ phương xa. Cái đó thì không ngừng nghỉ, phải liên tục. Nhưng không chỉ như vậy. Mình hướng ra biển còn là hướng tới tương lai, hướng tới một nền kinh tế biển, hướng đến sự giao lưu, phát triển về văn hoá, kinh tế, thậm chí về cả quốc phòng trong bối cảnh ngoại giao đa phương để tìm sức mạnh làm cho biển Đông không dậy sóng, để giữ vững được chủ quyền của mình đối với biển, đảo và cũng có thể đòi lại Hoàng Sa bằng các giải pháp hoà bình.
Nghĩa là đứng trên "Vọng hải đài", người Đà Nẵng bây giờ phải nhìn rất nhiều thứ chứ không chỉ là cảnh giác các thế lực xâm lược. Nhưng rõ ràng thông qua câu chuyện 155 năm trước, hoàn toàn có thể nghĩ đến vị trí địa chính trị, địa quân sự của Đà Nẵng. Và điều đó có nghĩa là người Đà Nẵng phải luôn ý thức là mình được Tổ quốc giao cho sứ mệnh làm cửa ngõ, làm đầu cầu cùng với một thanh gươm để mà vệ quốc!
![]() |
Liên quân Pháp - Y Pha Nho đổ bộ lên tả ngạn sông Hàn, tấn công thành Điện Hải (Ảnh tư liệu do Bảo tàng Đà Nẵng cung cấp) |
Trong bối cảnh vừa xây dựng đất nước, vừa bảo vệ đất nước, đặc biệt là trong bối cảnh sự tranh chấp trên biển Đông đang rất nóng như hiện nay, những nguyên nhân làm nên thắng lợi của kháng liên quan Pháp - Tây Ban Nha như là sự đồng thuận của nhân dân, vai trò của triều đình, tức là của trung ương, và vai trò của những cá nhân xuất sắc về mặt chính trị, quân sự rõ ràng là những bài học tuy đã 155 năm nhưng vẫn còn nguyên giá trị của nó.
Ông nhìn nhận thế nào về 3 yếu tố lòng dân - triều đình - danh tướng từng làm nên chiến thắng cách đây 155 năm như ông đã đề cập ở phần đầu của cuộc phỏng vấn này và trước tình hình biển Đông hiện nay?
Ông Bùi Văn Tiếng: Lòng dân, lòng yêu nước của người dân, ý thức bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc đối với mỗi người dân Việt Nam hiện nay, theo tôi thì vẫn không có gì suy chuyển so với trước. Chỉ có điều bây giờ các thế lực thù địch tinh vi hơn. Hồi xưa, nền "ngoại giao pháo hạm" bắn vào là mình biết ngay đó là kẻ thù. Hồi xưa hoặc là thù, hoặc là bạn. Còn bây giờ mình đang sống trong một thế giới nhiều biến đổi khiến cho việc nhận chân kẻ thù không đơn giản, đặc biệt là việc ứng phó với họ cũng phải phong phú, đa dạng và linh hoạt hơn nhiều.
Nghị quyết Trung ương 8 về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới có một ý rất hay: "vừa là đối tác, vừa là đối tượng". Trong những kẻ mà mình cho là đối tượng để đấu tranh thì cũng có những yếu tố có thể hợp tác, và trong những người mà mình mong muốn làm bạn, hợp tác với họ, họ là đối tác với mình thì cũng có những khía cạnh cần phải cảnh giác, cần phải đấu tranh. Cái nhìn biện chứng như thế, tôi cho là hiện đại hơn, thực tế hơn, và tất nhiên là nó khó khăn hơn nhiều so với ông cha mình thưở trước nhìn vào đối phương.
Đối phương bây giờ khác trước. Nhưng khác đến đâu thì vẫn là đối phương. Khác đến đâu thì từng tấc đất thiêng liêng của cha ông, của hương hoả tiền nhân để lại, không một ai ở bất kỳ cương vị nào có thể xem nhẹ được. Còn vấn đề là làm sao mình giữ được cái đó nhưng mặt khác vẫn tranh thủ được sự bình yên, tranh thủ được hoà bình để phát triển, để làm giàu cho đất nước, tạo tiềm lực về kinh tế, từ đó mà có tiềm lực về quốc phòng để có thể vừa xây dựng, vừa bảo vệ Tổ quốc một cách nhẹ nhàng hơn, ít áp lực hơn.
![]() |
Toàn cảnh chiến trường liên quân Pháp - Y Pha Nho chuẩn bị tấn công hệ thống phòng ngự của quân và dân Đà Nẵng dưới sự chỉ huy của danh tướng Nguyễn Tri Phương ngày 8/5/1859 (Ảnh tư liệu do Bảo tàng Đà Nẵng cung cấp) |
Về "triều đình", bây giờ tức là trung ương, thì tôi nghĩ quan điểm về đối ngoại, quan điểm về bảo vệ đất nước rất rõ ràng. Vấn đề là trong những giờ phút quyết định, mình chọn phương án nào cho phù hợp.
Còn danh tướng, rõ ràng với một đất nước đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh, tôi nghĩ đã trở thành tố chất của người Việt. Có thể nói tầm nhìn chiến lược của các vị tướng thời nay, tuy có thể có người chưa được kiểm nghiệm trong thực tế chiến trường, số trẻ ấy, nhưng nếu tích luỹ được kinh nghiệm của những người đi trước, của những bài học trong chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ và cả chống xâm lược biên giới... thì tôi nghĩ, danh tướng tuy hiếm nhưng không phải không có. Khi cần thiết, vào những thời khắc quyết định của lịch sử, chắc chắn là sẽ sản sinh ra những Nguyễn Tri Phương của thời đại mới.
Từ câu chuyện 155 năm trước nhìn về câu chuyện biển Đông bây giờ, và từ câu chuyện biển Đông bây giờ nhìn về cuộc kháng Pháp 155 năm trước, đúc kết mà ông cho là sâu sắc nhất, có giá trị thực tiễn nhất là gì?
Ông Bùi Văn Tiếng: Thành trì không giữ được nước. Chỉ có lòng dân mới giữ được nước!
Hệ thống phòng thủ Đà Nẵng có thể nói là hệ thống chiến lược không ngừng được đầu tư và được gia cố liên tục qua các triều vua Nguyễn nhưng đã bị hỏa lực của liên quân Pháp - Y Pha Nho vô hiệu hóa ngay từ những trận đánh đầu tiên. Xem xét tương quan kỹ thuật quân sự, có thể nói vào thời điểm 1858, cái "thuẫn" phương Tây trong tư duy của vua Gia Long vẫn chưa thể chống đỡ được cái "mâu" Tây phương vốn đang đi trước chúng ta cả một thời đại.
Trong tình hình đó, chỉ có lòng dân, lòng dân là bức tường thành hết sức bền vững, hết sức kiên định khiến cuộc chiến đấu dưới chân thành Điện Hải đã góp phần không nhỏ vào việc cầm chân quân thù, không cho chúng tràn vào đất liền, đổ quân lên bộ, làm thất bại âm mưu đánh chiếm của địch. Chỉ có lòng dân mới giữ được đất nước là bài học qua cuộc kháng chiến từ 155 năm trước, mà Đà Nẵng là nơi khởi đầu nên có thể cảm nhận rất rõ.
![]() |
Nghĩa địa liên quân Pháp - Y Pha Nho trên bán đảo Sơn Trà do Trung uý Treille xây dựng năm 1858 (Ảnh tư liệu do Bảo tàng Đà Nẵng cung cấp) |
Khi người dân quyết tâm đứng lên để bảo vệ đất nước này, ngày hôm trước còn sống bình yên, chiều hôm sau đã trở thành những nghĩa sĩ, nghĩa binh, những dân binh thì đấy mới là yếu tố giúp cho những danh tướng, những bộ tư lệnh tối cao, những vị tổng tư lệnh tối cao của cuộc chiến có thể đưa ra những đối sách phù hợp. Không có một nhân dân như thế thì có lẽ đã không thể có chiến thắng trong cuộc kháng chiến 2 năm 1858 - 1860.
Tất nhiên nhân dân, như tôi đã nói, không chỉ nhân dân Đà Nẵng mà còn là nhân dân các nơi. Chúng ta nhớ là vào những năm đầu khởi sự cuộc chiến, nhân dân các tỉnh phía Bắc xung phong dưới sự tập hợp của các sĩ phu yêu nước cứ xin vua cho vào Đà Nẵng đánh giặc. Những người Quảng xa quê ở Huế cũng mong muốn được trở về quê hương để đóng góp vào cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Yếu tố nhân dân là yếu tố quan trọng khiến sau hơn 5 tháng bị sa lầy "dưới chân thành Điện Hải", nhận thấy không thể kéo dài mãi phương án nuốt chửng nước Đại Nam theo hướng Đà Nẵng và quân Y Pha Nho do thua trận nên đã rời bỏ liên quân, ngày 2/2/1859, Rigault de Genouilly kéo đại quân vào đánh chiếm Sài Gòn; ngày 8/5/1859, sau khi từ Sài Gòn ra Đà Nẵng xem xét binh tình, Rigault de Genouilly quyết định tấn công Huế, làm vỡ tuyến phòng thủ thứ nhất của triều đình trên sông Hương.
Ngày 19/10/1859, thiếu tướng hải quân Le Page từ Pháp tới Đà Nẵng thị sát cũng quyết định tiếp tục tấn công theo hướng Huế, đến ngày 18/11 đã phá huỷ xong tuyến phòng thủ cuối cùng. Rốt cuộc Le Page trên cương vị chỉ huy liên quân thay cho Rigault de Genouilly hạ lệnh rút toàn bộ quân viễn chinh ra khỏi Đà Nẵng vào ngày 23/3/1860, kết thúc cuộc chiến tranh 2 năm, để lại ở lưng núi Sơn Trà một "tháp hài cốt chứa ngàn thánh giá", một nghĩa địa chôn xác những sĩ quan, binh lính Pháp - Y Pha Nho.
Dù thất bại trước cuộc kháng chiến 2 năm 1858 - 1960 của quân dân Đà Nẵng nhưng cuối cùng thực dân Pháp vẫn áp đặt được ách cai trị lên đất nước ta. Có vấn đề gì ông thấy cần lưu ý trong chuyện đó?
Ông Bùi Văn Tiếng: Những mục tiêu chiến lược về chính trị, thương mại, tôn giáo liên quan đến Việt Nam mà quân Pháp không đạt được trên chiến trường Đà Nẵng thì sau đó họ đã đạt được ở hội nghị 1862. Triều đình Huế phải ký Hiệp ước Hoà bình và Hữu nghị 1862 (thường gọi là Hoà ước Nhâm Tuất), trong đó có điều khoản quy định thương nhân Pháp - Y Pha Nho được ra vào buôn bán ở cửa biển Đà Nẵng. Từ đó tạo cơ hội cho họ đứng chân nơi đầu cầu Đà Nẵng - cửa ngõ nối liền kinh thành Huế.
Rõ ràng là những gì mà quân xâm lược không đạt nổi trên chiến trường 1858 - 1860 thì họ đã cố đạt cho kỳ được tại bàn hội nghị sau đó 2 năm. Đó là bài học lịch sử mà chúng ta không bao giờ được quên lãng!
Xin cảm ơn ông!