BHXHVN xây dựng khung lập kế hoạch phát triển dân tộc thiểu số
Ảnh minh họa |
Đây là yếu tố quan trọng trong đổi mới BHXHVN đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả, độ tin cậy và minh bạch trong hoạt động nhờ sử dụng thẻ tích hợp. Trên thẻ có ghi mã nhận dạng mà về sau, khoảng cuối thập kỷ này, khi được nhân rộng ra cả nước sẽ được kết nối với số chứng minh thư.
Hiện nay hệ thống BHXHVN sử dụng một số mã nhận dạng riêng biệt trong các chế độ bảo hiểm xã hội. Không có một mã nào bao trùm cho tất cả các chương trình. Mỗi chương trình sử dụng một mã khách hàng riêng. Vì vậy việc kiểm tra chéo giữa các chương trình trở nên rất phức tạp và không thuận tiện cho khách hàng.
Ngoài ra, đối tượng hưởng và cơ sở y tế còn sử dụng một hệ thống thẻ bằng giấy rất lỗi thời. Thẻ đó không cho phép xác định nhận dạng và bị trục lợi do những người không thuộc diện đối tượng cũng mượn thẻ để đi khám. Thẻ phải thay hàng năm và không có thiết bị điện tử nào có thể đọc thông tin để mang lại sự thuận tiện cho người dùng và cho phép xác minh giao dịch.
BHXHVN đã bắt đầu thực hiện chương trình hiện đại hóa nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Sau khi hoàn thành rà soát thủ tục do Ngân hàng Thế giới hỗ trợ kỹ thuật thực hiện BHXHVN đã giảm con số các thủ tục bằng cách loại bỏ một số hoặc gộp một số lại với nhau. Số giấy tờ đòi hỏi để thực hiện các thủ tục đã giảm 55%. BHXHVN cũng đã bắt đầu xem xét tự động hóa các quy trình nghiệp vụ chính.
Ngoài BHXHVN ra còn có Bộ LĐTBXH là một cơ quan chủ chốt nữa về an sinh xã hội. Ngoài nhiệm vụ hoạch định chính sách về cả hai mảng bảo hiểm xã hội và cứu trợ xã hội, Bộ LĐTBXH còn quản lý hầu hết các chương trình trợ giúp xã hội, dịch vụ chăm sóc xã hội theo nhiều hình thức khác nhau, các chương trình người có công, người tàn tật, dịch vụ việc làm và chi trả bảo hiểm thất nghiệp. Bộ LĐTBXH cũng chịu trách nhiệm điều tra làm cơ sở để xác định hộ nghèo, hộ khó khăn (đợt điều tra gần nhất được thực hiện năm 2015).
Dựa vào phạm vi và hoạt động dự án, văn kiện EMPF đề ra khung hoạt động liên quan đến nhóm đối tượng dân tộc thiểu số và hướng dẫn cách chuẩn bị tiểu dự án/chương trình EMPF. Trên cơ sở lấy ý kiến cộng đồng thiểu số trong khu vực dự án, văn kiện này phải đảm bảo sao cho các đối tượng bị ảnh hưởng nhận được lợi ích kinh tế và xã hội phù hợp; các tác động tiêu cực tiềm tàng được nhận dạng, phòng tránh, giảm thiểu, giảm nhẹ hoặc đối tượng được đền bù xứng đáng.
Theo Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/1/2011 hướng dẫn các hoạt động liên quan tới dân tộc thiểu số như bảo tồn tiếng nói, văn hóa, phong tục và bản sắc của mỗi dân tộc. Điều 3 nghị định qui định các nguyên tắc chung: Thực hiện chính sách dân tộc thiểu số trên cơ sở bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và hỗ trợ lẫn nhau để phát triển; Đảm bảo thực hiện chính sách phát triển toàn diện và từng bước nâng cao cuộc sống vật chất và tinh thần cho người dân tộc thiểu số; Đảm bảo giữ gìn tiếng nói, chữ viết, bản sắc, phát triển các phong tục, truyền thống tốt đẹp và văn hóa của mỗi dân tộc thiểu số; và mỗi dân tộc sẽ tôn trọng truyền thống, phong tục của dân tộc khác, đóng góp vào xây dựng một nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Nghiên cứu thực địa được tiến hành ở hai tỉnh dự án có người dân tộc thiểu số, cụ thể là Hà Giang và Quảng Nam. Ở mỗi tỉnh được nghiên cứu, hai huyện/thị xã đã được lựa chọn, và tại mỗi huyện/thị xã, một xã được lựa chọn để tham vấn. Ở cấp tỉnh, huyện và xã, nhóm nghiên cứu đã tổ chức họp tham vấn và thảo luận nhóm với các cán bộ khác nhau của ngành BHXH và ngành LĐTBXH, cũng như những người sử dụng dịch vụ và các đối tượng được hưởng lợi của họ.