Nghệ An: Người đàn ông suýt mất mạng vì dùng lá lộc mại để chữa táo bón
Được cấp cứu kịp thời, anh N. đã qua cơn nguy kịch và điều trị tích cực tại bệnh viện. |
Ngày 2/5, Khoa Hồi sức Tích cực chống độc – Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa (BVHNĐK) Nghệ An cho biết, những ngày qua, khoa đã tiếp nhận điều trị cho bệnh nhân La Thanh N. (37 tuổi, trú huyện Con Cuông) do bị ngộ độc lá lộc mại.
Theo bệnh nhân N. cho biết, anh có tiền sử bệnh táo bón tái phát nhiều lần. Và theo kinh nghiệm truyền miệng dân gian, anh đã từng hái lá cây lộc mại về nấu canh ăn để chữa bệnh. Nhận thấy cách trị bệnh này hiệu quả, ngày 21/4 vừa qua, anh N. tiếp tục hái lá lộc mại, sắc trong ấm lớn để lấy nước uống.
Tuy nhiên, 2 ngày sau, anh N. có biểu hiện vàng mắt, vàng da, mệt mỏi, sốt 2 ngày, đi kèm triệu chứng chóng mặt, chán ăn.
Sau đó, gia đình đưa anh đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa huyện Con Cuông rồi nhanh chóng được chuyển tuyến lên BVHNĐK Nghệ An để điều trị.
Lá lộc mại là loại lá rất độc và có thể gây tử vong rất nhanh nếu như ăn và uống với số lượng lớn. |
Sau khi được nhập viện, các bác sỹ ở đây xác định anh N. đã bị nhiễm độc gây tan máu cấp và thiếu máu nghiêm trọng.
Nhờ được cấp cứu kịp thời nên sau 2 ngày nhập viện anh N. đã qua cơn nguy kịch và đang được các bác sỹ theo dõi, điều trị tích cực.
Các bác sỹ khoa Hồi sức tích cực chống độc BVHNĐK Nghệ An cũng khuyến cáo, lá lộc mại là loại lá rất độc và có thể gây tử vong rất nhanh nếu như ăn và uống với số lượng lớn.
Từ đầu năm đến nay, khoa Hồi sức Tích cực chống độc của Bệnh viện đã tiếp nhận 3 ca ngộ độc lá lộc mại. Đa phần các bệnh nhân khi vào viện đều rơi vào tình trạng nguy kịch do bị tan máu cấp, thiếu máu nghiêm trọng. Nhiều trường hợp do đến muộn, bị tan máu quá nhiều không kịp truyền máu đã dẫn đến tử vong.
Cây Lộc mại có tên khoa học: Claoxylon indicum (Reinw.ex Blume) Endl.ex Hassk thuộc họ Thầu Dầu (EUPHORBIACEAE)
Ở Việt Nam, cây có nhiều tên gọi khác nhau như: Lộc mại, Lục mại, Mọ trắng, Rau mại, Rau mọi. Ngoài ra còn có một số loài khác như: Lộc mại trái láng, lộc mại lá dài, lộc mại nhỏ).
Lộc mại là cây gỗ nhỏ hay lớn, có thể cao đến 15m. Lá đa dạng, phiến hình bầu dục dài 10-14cm, gốc lá có khía hơi lõm, mép răng thưa, mỏng, có lông dày hay thưa có đốm trong, cuống ngắn hay dài đến 10cm. Cụm hoa dài có lông dày, hoa đực, dài 20cm lông thưa, ngắn ở chùm hoa cái. Hoa đực có 15-20 nhị, hoa cái có bầu 2-3 ô, mỗi ô một noãn. Quả nang có lông dày dài khoảng 1cm. Hạt dài 3mm, màu trắng. Lộc mại ra hoa tháng 5-8, kết quả vào tháng 7.
Ở nước ta, lộc mại mọc ở rừng và đồi vùng đồng bằng và trung du có độ cao dưới 700 m từ Lào cai đến Kiên Giang.
Công dụng: Lá có tác dụng tẩy. Rễ có vị nhạt, tính bình, ít độc có tác dụng khu phong, trừ thấp, tán ứ, giảm đau. (chú ý: các tư liệu về loài Mercurialis của Pháp không thể áp dụng vào loài Claoxylon của Việt Nam).
Lá lộc mại non nấu canh ăn được. Lá giã nát thêm muối và nước vo gạo, hơ nóng đem chườm chữa quai bị, thấp khớp. Người cơ thể suy nhược, phụ nữ có thai không được dùng.
Tuy nhiên, dùng lá lộc mại có thể bị ngộ độc. Đối với hệ thống tiêu hoá thì gây hiện tượng ăn không tiêu, đầy bụng, đau vùng ruột, đi ngoài lỏng hoặc táo bón. Với hệ thống tiết niệu: nước tiểu có mầu đỏ, đái vặt và buốt.
Tim đập mạnh và nhanh. Bệnh nhân mệt yếu. Viêm dạ dày và ruột, viêm thận. Muốn chữa ngộ độc cần dùng thuốc nhuận để tống hết chất độc hoặc dùng thuốc kích thích chung toàn thân. Cần chú ý là nước tiểu màu đỏ không phải là do đái ra máu mà là do một loại sắc tố của cây.