Loại quả đọc tên thấy đau được dùng thay rau, ai không nên đụng đũa?
TS. Ngô Đức Phương, Viện trưởng Viện thuốc nam cho biết, cây vả (người Tày còn gọi mác ngoa) với tên khoa học là Ficus roxburghii Wall. ex Miq có quan hệ cùng "CHI" Ficus với cây sung.
Quả vả và quả sung có ruột giống nhau và ăn có vị hơi giống nhau nên người ta vẫn hay ví "lòng vả cũng như lòng sung".
Vả có nguồn gốc ở vùng Ấn Độ – Malaysia, phân bố tự nhiên phổ biến từ Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Philippin, Indonesia, đến Việt Nam, Lào..., ở các nước này, vả còn được trồng như một loại cây ăn quả thông dụng.
Ở Việt Nam, vả là cây mọc tự nhiên trong quần hệ rừng kín thường xanh, mưa ẩm nhiệt đới, thuộc hầu hết các tỉnh vùng núi (từ 1.000m trở xuống) và ở cả miền Bắc lẫn miền Nam.
Ở các tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ, Yên Bái, Hoà Bình, Thái Nguyên, Lạng Sơn… đôi khi cây cũng được người dân địa phương trồng ở bờ ao hay vườn nhà.
TS Ngô Đức Phương cho biết, quả vả thường được nhiều nơi dùng quả non (bánh tẻ) cắt mỏng làm rau ăn cùng một số loại như gỏi, thịt luộc, ốc luộc,... Lá non được dùng như lá sung để ăn cùng nem, thịt luộc, đặc biệt là gói món trứng kiến xào ăn rất ngon và hợp khẩu vị.
Với người dân xứ Huế thì nhiều nhà trồng cây vả ở trước nhà hoặc trong vườn để lấy quả, lấy lá làm rau ăn. Khi ăn, lấy quả xanh thái lát mỏng, rửa qua nước và ngâm với nước muối loãng.
Bên cạnh việc được dùng là món ăn thay rau hàng ngày thì quả vả có vị ngọt, tính bình, có tác dụng mạnh dạ dày, nhuận tràng, thanh nhiệt, tiêu đờm, lợi tiểu. Rễ và lá vả có tác dụng giải độc, tiêu thũng.
Theo TS. Ngô Đức Phương, quả vả được dùng trị kiết lỵ, trĩ, táo bón. Nhựa dùng bôi trị mũi có nhiều mụn đỏ. Để chữa suy nhược, kém ăn, gầy yếu, dùng quả vả vừa chín tới, phơi nắng hoặc sấy khô, rồi lấy 500g quả cắt nhỏ, ngâm với một lít rượu trắng trong 10-20 ngày. Ngày uống 3 lần trước bữa ăn và lúc đi ngủ, mỗi lần một chén nhỏ.
Trong đông y, quả vả được dùng trong một số bài thuốc chữa:
Chữa họng sưng đau: Quả vả non 100g, lá chó đẻ 50g, búp tre 30g. Tất cả để tươi, rửa sạch, giã nát, sao nóng, đắp vào chỗ đau, băng lại. Ngày làm hai lần.
Chữa cảm, ngộ độc: Quả vả, quả sung, mỗi vị 200g; lá móc mèo, rễ canh châu, mỗi vị 50g. Thái nhỏ, phơi khô, tẩm rượu, sao vàng, sắc uống làm hai lần trong ngày.
Thuốc tăng tiết sữa: Quả vả khô, sấy giòn, tán bột. Mỗi ngày uống hai lần, mỗi lần 12g với nước đun sôi để nguội vào lúc đói. Dùng 3 – 5 ngày.
TS Ngô Đức Phương cũng cho biết thêm, cây vả cũng có hai loại (vả muỗi và vả mật). Khác với những loại vả khác, khi chín, vả muỗi thường chứa nhiều muỗi bên trong. Do đó, mà loại quả này có tên là vả muỗi. Tuy nhiên, khi xanh vả muỗi cũng được dùng để muối ăn hoặc dưa chua rất ngon.
Quả vả nếp (vả mật) chín ăn rất ngọt và thơm, giống như quả sung chín. Khi vào rừng nếu gặp quả vả mật chín lúc đói và khát thì thật sự là điều tuyệt vời để giải quyết cơn đói khát tức thì.
Tuy nhiên với quả vả muỗi lại ngược lại. Theo kinh nghiệm của nhiều người quả vả muỗi ăn không ngon và có thể bị say nếu ăn nhiều.
Đáng lưu ý, dù đem lại nhiều công dụng cho người sử dụng, nhưng quả vả vẫn tồn tại những tác dụng phụ có thể xảy đến với một số ít người như: tiêu chảy, dị ứng, có hại với gan, gây hại cho dạ dày và đầy hơi…
Do đó, các chuyên gia lưu ý trẻ em, người huyết áp thấp, người bị dị ứng với mủ cao su tự nhiên, người bị suy giảm chức năng gan thận, người mắc tiểu đường đang dùng thuốc, bệnh nhân chuẩn bị phẫu thuật, bệnh nhân sử dụng thuốc chống đông máu, người có vấn đề về xương khớp, người mắc bệnh gout thì không nên ăn loại quả này.
N. Huyền