Lần đầu tiên phẫu thuật kích thích não sâu cho bệnh nhân Parkinson
Các bác sĩ chăm sóc cho bệnh nhân vừa phẫu thuật. |
Anh Hoàng Minh P. sinh năm 1964, được chẩn đoán Parkinson từ năm 2006. Triệu chứng khởi đầu của bệnh nhân là run vùng ngọn chi, chủ yếu tay phải, kèm theo là cứng các cơ nửa người phải, bệnh nhân nói khó, viết khó. Bệnh nhân được điều trị khởi đầu với Artan 2mg x 2 viên/ngày chia 2 lần.
Năm 2007 các triệu chứng của bệnh nhân nặng dần lên với các biểu hiện run chi, viết khó; đi lại khó khăn kèm theo bệnh nhân tiểu khó, hay vã mồ hồi, táo bón. Bệnh nhân được sử dụng phối hợp Artan 2mg x 2 viên/ngày và syndopa tăng dần liều. Đến thời điểm bệnh nhân đến khám, bệnh nhân đã phải dùng tới 6 viên syndopa/ngày.
Thuốc chỉ có tác dụng trong khoảng vài tiếng, ngoài ra sau khi sử dụng thuốc khoảng 30 phút đến 1 giờ, bệnh nhân lại có các biểu hiện loạn động, xoắn vặn. Bệnh nhân rất chán nản, bi quan.
Sau khi được khám sàng lọc và làm các test đánh giá về thần kinh, tâm lý cũng như test UPDRS để đánh giá khả năng phẫu thuật. Bệnh nhân P được nhận định cần phẫu thuật.
Toàn bộ quá trình phẫu thuật từ lúc gắn khung định vị đến khi kết thúc phẫu thuật kéo dài từ 7-8h. Bệnh nhân P được lưu lại viện 3-4 ngày để theo dõi các biến chứng chảy máu, nhiễm trùng sau đó được xuất viện.
Trong những tuần đầu, bệnh nhân P được tái khám định kỳ hàng tuần và được các bác sĩ chuyên khoa nội thần kinh điều chỉnh cường độ và vị trí phát xung thích hợp, kèm theo với việc duy trì sử dụng thuốc hợp lý.
3 tuần sau khi phẫu thuật được duy trì Syndopa với liều 1.5 viên/ngày và điều trỉnh cường độ kích thích phù hợp, bệnh nhân P đã có thể đi lại, tự phục vụ bản thân. Các biểu hiện như loạn động đã được kiểm soát, các triệu chứng như cứng cơ được cải thiện 80-90%, triệu chứng run được cải thiện 70%.
Ca phẫu thuật đặt điện cực kích thích não sâu đầu tiên tại khu vực phía bắc tiến hành tại Bệnh Viện Hữu Nghị Việt Đức được đánh giá là thành công, mở ra cơ hội cho những bệnh nhân Parkinson nặng đáp ứng kém với thuốc và có điều kiện kinh tế phù hợp.
Theo TS. Nguyễn Anh Tuấn – Trưởng Khoa Nội – Hồi sức Thần Kinh - Bệnh Viện Hữu Nghị Việt Đức, Parkinson là bệnh lý thoái hóa thần kinh và tiến triển từ từ và nặng dần theo thời gian.
Parkinson là bệnh có những biểu hiện lâm sàng là triệu chứng vận động với biểu hiện điển hình là chứng run và co cứng cơ, chậm chạp, mất ổn định về tư thế, bệnh nhân đi lại dễ bị ngã.
Triệu chứng ngoài vận động liên quan đến trầm cảm, tiêu hóa, rối loạn thần kinh thực vật… Khi bị mắc chứng bệnh này, với những bệnh nhân ở giai đoạn sớm thường có biểu hiện run ở phần ngọn chi và miệng, kèm theo có việc co cứng các cơ, động tác chậm chạp dẫn đến việc hạn chế vận động.
Ở những giai đoạn sau khi bệnh, khi triệu chứng nặng dần lên, run và cứng cơ nhiều hơn khiến bệnh nhân bị mất ổn định về tư thế, dễ bị ngã khi đi lại.
Ngay những động tác đơn giản như cài khuy áo, tự mặc quần áo cũng không thể tự làm được. Người mắc bệnh Parkinson còn hay gặp các triệu chứng ngoài vận động như tiểu đêm, táo bón, trầm cảm…
Việc điều trị cho bệnh nhân Parkinson chủ yếu là dùng thuốc. Ở những giai đoạn đầu, việc dùng thuốc thường đem lại hiệu quả ấn tượng và giai đoạn này được gọi là “thời kỳ trăng mật” (thường là 4-5 năm từ khi khởi phát bệnh).
Tuy nhiên, ở những giai đoạn sau này việc đáp ứng với thuốc ngày càng kém dần, bệnh nhân có xu hướng phải tăng liều điều trị và đây cũng là giai đoạn xuất hiện nhiều biến chứng do việc sử dụng thuốc.
Kỹ thuật “kích thích não sâu” là một trong những kỹ thuật hiện đại nhất điều trị bệnh Parkinson và một số các rối loạn vận động khác. Các nước châu Âu và Mỹ khuyến cáo sử dụng kỹ thuật này để điều trị BN Parkinson ở giai đoạn đáp ứng kém với thuốc, thường tối thiểu 5 năm kể từ khi được chẩn đoán Parkinson.
Với những thiết bị Việt Nam có, giá thành sẽ giảm nhiều, chi phí có thể chỉ khoảng hơn 30.000 USD (bằng 1/3 so với nước ngoài).
Phẫu thuật kích thích não sâu là một phương pháp phẫu thuật sọ não nhằm đưa một que kim loại (còn gọi điện cực) vào đúng các cấu trúc sâu trong não.
Sau đó, điện cực được nối với một dây dẫn ra khỏi não, luồn dưới da từ vùng đầu đến vùng trước ngực rồi gắn vào máy tạo nhịp được đặt ở đó. Tuổi thọ pin trung bình khoảng 5 năm, tùy thuộc vào cường độ điện sử dụng cao hay thấp.
Giống như máy tạo nhịp tim, khi được kích thích, dòng điện sẽ theo dây dẫn vào điện cực, từ đó tác động vào nhân não giúp cải thiện triệu chứng cho người bệnh.