Đau bụng tưởng rối loạn tiêu hoá, người phụ nữ đi khám mắc loại ung thư phổ biến
Bệnh nhân P.T.T. 52 tuối, phường Yên Thanh, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đến bệnh viện Việt Nam- Thuỵ Điển Uông Bí kiểm tra khi nghĩ mình bị rối loạn tiêu hoá.
Qua thăm khám, nội soi, các bác sĩ phát hiện người bệnh có khối u lớn ở đại tràng, tiến hành làm xét nghiệm sinh thiết phát hiện ung thư đại tràng phải biến chứng bán tắc ruột và chảy máu.
Người bệnh được chỉ định phẫu thuật cắt nửa đại tràng phải có khối u kèm theo vét hạch. Trong mổ các bác sĩ thấy tổn thương u đại tràng phải kích thước lớn khoảng 15x10x8cm gây bán tắc ruột và chảy máu tại bề mặt khối u trong lòng ruột.
Một trường hợp khác cũng xảy ra tương tự. Đó là bệnh nhân Vũ Văn B. trú tại phường Phong Hải – thị xã Quảng Yên. Trước nhập viện khoảng 1 tháng, người bệnh đi đại tiện có máu đỏ tươi, thỉnh thoảng thấy đau bụng. Bệnh nhân chủ quan, chỉ đến khi tình trạng không đỡ bệnh nhân mới đến viện kiểm tra thì đã phát hiện ung thư trực tràng.
Trường hợp bệnh nhân P.T.T., BSCKI. Trịnh Công Định cho biết, với tổn thương u đại tràng của người bệnh, thông thường bệnh đã có thời gian tiềm tàng, tiến triển trước đó một khoảng thời gian mà một số người lầm tưởng rằng mình chỉ bị rối loạn tiêu hoá hoặc viêm đại tràng mà không đi khám hoặc kiểm tra.
BSCKI. Trịnh Công Định khuyến cáo các trường hợp có triệu chứng rối loạn tiêu hoá như đi ngoài nhiều lần, phân lẫn máu, chất nhầy, có thể có đau bụng... thậm chí, nếu trước đó chưa từng mắc bệnh gì mà bất ngờ có biểu hiện trên thì cần đi khám chuyên khoa tiêu hoá để phát hiện sớm bệnh ung thư.
Trên thực tế, đã có một số người không có triệu chứng rối loạn tiêu hoá, mà chỉ đau bụng, gầy sút cân, thiếu máu... nhưng đi khám thì đã phát hiện ra bệnh ung thư. Bên cạnh đó có một số dấu hiệu cảnh báo ung thư đường tiêu hóa có thể gặp như chướng bụng, chán ăn, mệt mỏi, buồn nôn, đại tiện bất thường…
Ung thư đại trực tràng thường gặp ở những người trên 50 tuổi, tuy nhiên tỉ lệ mắc ung thư đại trực tràng trong nhiều năm gần đây tăng nhanh ở giới trẻ, tại Bệnh viện K căn bệnh này đã được chẩn đoán ở cả những bệnh nhân 20 tuổi.
Theo số liệu WHO 2018, ung thư đại trực tràng là ung thư phổ biến hàng thứ 5 tại Việt Nam sau ung thư gan, phổi, dạ dày, vú. Mỗi năm ghi nhận gần 15.000 ca mắc mới, tỉ lệ 13,4/100.000 dân, và khoảng hơn 7000 ca tử vong.
Theo TS Nguyễn Tiến Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản lý, Bệnh viện K, tại Việt Nam, năm 2000, số ca mắc mới ung thư đại trực tràng ở cả 2 giới là 5.400 ca, đến năm 2010 là hơn 13.000 ca và đến năm 2018 đã tăng lên gần 15.000 ca, gấp gần 3 lần trong vòng 18 năm, trong đó có gần 9.300 ca tử vong.
Theo dự báo đến 2025, ung thư đại trực tràng sẽ vươn lên hàng thứ 2 ở nam giới và thứ 4 ở nữ giới. TS Quang cho biết, sở dĩ ung thư đại trực tràng ở nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển tăng nhanh do liên quan trực tiếp đến lối sống, chế độ ăn.
Người dân dần thích nghi với lối sống của phương Tây, trong đó béo phì, ít vận động, tiêu thụ nhiều thịt đỏ, ăn ít trái cây và rau xanh, nạp nhiều chất béo, thức ăn nhanh, uống nhiều rượu, hút thuốc lá... là những yếu tố nguy cơ gia tăng tỉ lệ mắc bệnh.
Bằng chứng, 57% người trưởng thành tại nước ta ăn thiếu rau và trái cây so với khuyến nghị của WHO, trong khi ăn nhiều thịt; một nửa nam giới uống rượu bia ở mức nguy hại; béo phì tăng nhanh từ 12% năm 2010 lên 17,5% năm 2015; Việt Nam nằm trong top 15 nước có số người hút thuốc lá cao nhất thế giới...
Ngoài lối sống, ung thư đại trực tràng có liên quan đến yếu tố tuổi tác và di truyền, tuy nhiên số ca liên quan đến di truyền chỉ chiếm 3-5%.
Bs. Nguyễn Tiến Sơn, BV Đa khoa Hồng Ngọc cho biết, tính nguy hiểm của ung thư đại tràng phụ thuộc vào tình trạng bệnh được phát hiện ở giai đoạn nào. Phát hiện càng sớm thì tỉ lệ điều trị thành công càng lớn.
Nếu phát hiện bệnh ở giai đoạn đầu thì tỉ lệ sống sau 5 năm có thể lên tới 90%, tuy nhiên dưới 10% bệnh nhân phát hiện ở giai đoạn muộn sống quá 5 năm.
Để phát hiện sớm, các bác sĩ khuyến cáo người dân nội soi kiểm tra đại tràng và dạ dày định kỳ. Bởi khi thực hiện các phương pháp khám sàng lọc thường quy sẽ nhằm giúp phát hiện sớm các khối u khi còn rất nhỏ, từ đó có cơ hội điều trị khỏi bệnh, tiên lượng tốt hơn và chi phí điều trị bệnh ít tốn kém hơn.
N. Huyền