Chính sách tiền tệ đang góp phần kiềm chế lạm phát
3 tháng đầu năm 2022, mặc dù diễn biến dịch bệnh Covid-19 rất phức tạp nhưng với sự kiên trì và linh hoạt trong điều hành, Chính phủ đã kiểm soát được tình hình, từng bước đưa hoạt động kinh tế, xã hội trở về trạng thái bình thường.
Đầu năm 2022, Quốc hội thông qua mục tiêu điều hành vĩ mô là tăng trưởng GDP 6-6,5%, lạm phát bình quân 4%. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, bối cảnh thế giới và trong nước tại thời điểm xác định mục tiêu tăng trưởng và lạm phát nêu trên so với hiện nay đã khác rất xa. Trong khi đó, nền kinh tế đang đối mặt với không ít thách thức như: chi phí sản xuất tăng, nhu cầu đầu tư thấp, tâm lý kỳ vọng lạm phát rất nhạy cảm... rất dễ dẫn đến tình trạng “lạm phát kèm suy thoái”.
Từ thực tế trên, giới phân tích nhận định: Việt Nam đang hội tụ đủ 3 yếu tố cơ bản gây áp lực lên lạm phát là chi phí đẩy - cầu kéo - tiền tệ, trong đó, chi phí đẩy được xác định là yếu tố chi phối.
Theo ông Nguyễn Trung Tiến, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, cho biết CPI quý 1/2022 tăng 1,92% so với năm ngoái, đây là mức tăng cao nhưng mức này vẫn trong tầm kiểm soát.
“Tuy cao hơn mức tăng 0,29% của năm 2021 nhưng vẫn thấp hơn mức tăng của các năm từ 2017-2020. CPI quý 1/2022 của Việt Nam được kiểm soát tốt trong bối cảnh nhiều quốc gia chịu bão giá do xăng dầu”, ông Tiến nói.
Ngược lại, chỉ số CPI giảm ở một số nhóm hàng hoá như thực phẩm giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước làm CPI giảm 0,26% trong đó giá thịt lợn giảm mạnh. Bên cạnh đó, dịch vụ giao dịch giảm 4,24%, giá thuê nhà ở quý 1 giảm 15,14% so với cùng kỳ. Con số trên cho thấy quý 1/2022, mức giá tăng nhưng đã quản lý tốt.
CPI quý 1/2022 của Việt Nam được kiểm soát tốt trong bối cảnh nhiều quốc gia chịu bão giá do xăng dầu. |
Trên thực tế, việc kiểm soát lạm phát thời gian qua tương đối thành công, góp phần không nhỏ là nhờ chính sách tiền tệ hợp lý. Ông Nguyễn Đức Long, Vụ trưởng Vụ Dự báo thống kê (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, thời gian qua, NHNN đặc biệt lưu ý trong việc kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu tiền tệ một cách hợp lý, để khả năng kiểm soát lạm phát không chỉ năm nay mà có thể kiểm soát được cả những năm tiếp theo.
Về tăng trưởng tín dụng, ông Long cho hay thời gian gần đây NHNN kiểm soát chặt chẽ về tăng trưởng tín dụng. Trong đó, luôn lưu ý để hướng tín dụng đến lĩnh vực sản xuất kinh doanh, hạn chế tín dụng vào lĩnh vực rủi ro, đặc biệt là bất động sản.
Về thanh khoản, NHNN duy trì thanh khoản ổn định, nhưng cũng đồng thời duy trì mặt bằng lãi suất liên ngân hàng hợp lý. Để một mặt hỗ trợ được thị trường ngoại hối và tỷ giá, một mặt cũng hỗ trợ việc giảm lãi suất trên thị trường. Về tỷ giá, thời gian qua NHNN cũng cùng với vụ chính sách tiền tệ điều hành tỷ giá làm sao để ổn định.
“Với việc điều hành đồng bộ như vậy, có thể thấy diễn biến lạm phát trọng thời gian qua là kiểm soát lạm phát theo mục tiêu. Trong đó lạm phát toàn phần CPI chúng tôi đánh giá đều là dưới 4%. Đối với lạm phát cơ bản, dao động trong 0,8-2%, mức hợp lý đối với Việt Nam. Đây là yếu tố hết sức quan trọng và hỗ trợ trong việc ổn định được nền kinh tế vĩ mô, và kỳ vọng kiểm soát lạm phát đề ra của Chính phủ”, ông Long nói.
Trong 2 năm qua, đặc biệt khi dịch Covid-19 diễn ra, các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Do đó các biện pháp của ngân hàng nhà nước đưa ra là làm sao cố gắng đáp ứng vốn cho nền kinh tế, bao gồm cả vấn đề lãi suất.
Theo đó, NHNN đã 3 lần điều chỉnh giảm lãi suất điều hành cũng như trần lãi suất cho vay… Bên cạnh đó cũng chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh để chủ động giảm mặt bằng lãi suất cho vay.
Thực tế, trong 2 năm qua, mặt bằng lãi suất cho vay khá thấp. Điều này hỗ trợ rất tích cực cho doanh nghiệp. Các biện pháp của NHNN kết hợp với việc cơ cấu nợ giữ nguyên nhóm nợ cho các doanh nghiệp khó khăn vẫn có khả năng tiếp cận được vốn vay ngân hàng. Đây là những giải pháp rất quan trọng mặt dù rất khó khăn.
Bên cạnh tăng tín dụng và giảm lãi suất như vậy thì NHNN cũng kiểm soát rất kỹ việc tín dụng đi vào lĩnh vực rủi ro, đặc biệt bất động sản để hạn chế vốn tín dụng đi vào lĩnh vực đó.
“Qua theo dõi, chúng tôi thấy rằng đa phần vốn đi vào sản xuất kinh doanh. Như vậy, tín dụng đang tạo điều kiện và hỗ trợ cho nền kinh tế, cũng như khả năng phục hồi của nền kinh tế”, ông Nguyễn Đức Long kết luận.
Hiền Anh