Căn bệnh HLV Lê Thuỵ Hải mắc tỷ lệ sống sau 5 năm chỉ chiếm 9,3%
Ung thư tụy chỉ đứng thứ 14 về tỉ lệ mắc nhưng lại đứng hàng thứ 7 về tỉ lệ tử vong do ung thư. Tiên lượng của ung thư tụy rất xấu, tỉ lệ sống trung bình sau 5 năm của bệnh nhân ung thư tụy chỉ khoảng 9.3%.
HLV Lê Thuỵ Hải |
Trưa 7/5, nhà cầm quân kỳ cựu Lê Thụy Hải đã trút hơi thở cuối cùng do mắc bệnh hiểm nghèo. HLV Lê Thụy Hải phát hiện mình mắc căn bệnh ung thư tuyến tụy cách đây 5 năm. Ông tạm dừng sự nghiệp để tập trung chữa bệnh.
Trong khoảng 2 năm trở lại đây, nhiều người biết việc nhà cầm quân sinh năm 1946 thường xuyên sang Singapore điều trị bệnh nhưng đến hôm nay đã không cưỡng được mệnh trời.
Theo BS. Lê Công Định, Khoa Nội I, Bệnh viện Ung bướu Hà Nội, ung thư tuyến tụy là những tổn thương ác tính xuất phát từ bất kỳ thành phần nào của mô tụy, bao gồm các tế bào của mô tụy ngoại tiết, tế bào tụy nội tiết (tế bào đảo Langerhans) và các tế bào thuộc mô liên kết của tụy.
Trên 95% ung thư tụy có nguồn gốc từ mô tụy ngoại tiết (gồm tế bào biểu mô ống tụy, tế bào “acinar”, tế bào mầm, …) trong đó khoảng 85% là xuất phát từ tế bào biểu mô ống tụy ngoại tiết; còn lại ung thư xuất phát từ tế bào tụy nội tiết và của mô liên kết rất hiếm gặp.
Theo thống kê của Tổ chức y tế thế giới, ung thư tụy chỉ đứng thứ 14 về tỉ lệ mắc (458.918 ca mắc/năm), tuy nhiên ung thư tụy lại đứng hàng thứ 7 về tỉ lệ tử vong do ung thư (432.242 ca tử vong/năm).
Điều này cho thấy tiên lượng của ung thư tụy rất xấu, trên thực tế tỉ lệ sống trung bình sau 5 năm của ung thư tụy chỉ khoảng 9.3%.
Nguyên nhân chủ yếu khiến ung thư tụy có tiên lượng xấu so với ung thư tiêu hóa khác là bởi tụy có vị trí đặc biệt ở rất sâu trong ổ bụng, triệu chứng lâm sàng nghèo nàn lại dễ nhầm với bệnh khác nên người bệnh thường được chẩn ở giai đoạn muộn.
Tại Mỹ, chỉ 10% bệnh nhân ung thư tụy được chẩn đoán ở giai đoạn sớm, trong khi đó 53% bệnh nhân được chẩn đoán ở giai đoạn IV khi đã có di căn xa.
Theo các chuyên gia, hiện nay nguyên nhân cụ thể của ung thư tụy vẫn chưa được xác định. Tuy nhiên rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra được các yếu tố nguy cơ có liên quan mật thiết tới cơ chế bệnh sinh của ung thư tụy.
“Yếu tố di truyền: Khoảng 10-15% ung thư tụy có liên quan tới yếu tố di truyền. Sự liên quan của yếu tố di truyền với ung thư tụy có thể được chia thành 2 nhóm:
Người mắc hội chứng di truyền liên quan đến tăng nguy cơ ung thư tụy: ví dụ người mắc ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng do di truyền (có đột biến gen BRCA1, BRCA2) có nguy cơ bị ung thư tụy theo thời gian là 3-5% hoăc người bị ung thư đại tràng không polyp có tính chất gia đình - hội chứng Lynch II (do đột biến gen sửa chữa ghép cặp sai-dMMR) có nguy cơ bị ung thư tụy theo thời gian là 4%, người bị viêm tụy do di truyền có nguy cơ bị ung thư tụy là 24-40% do có đột biết gen PRSS1, SPINK1.
Ung thư tụy có tính chất gia đình (familial pancreatic cancer): được xác định khi trong gia đình cặp có bố/mẹ - con hoặc cặp anh/chị-em cùng bị ung thư tụy. Đột biến mầm của gen BRCA1, BRCA2 được phát hiện trong khoảng 13-19% bệnh nhân ung thư tụy có tính chất gia đình”, BS Lê Công Định nói.
Ngoài ra, người mắc ung thư tuỵ cũng có thể do mắc một số bệnh lý mãn tính ở tụy làm tăng nguy cơ gồm: Đái tháo đường, viêm tuỵ mạn, bệnh xơ nang tụy.
Theo đó, rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra bệnh đái tháo đường và ung thư tụy có quan hệ mật thiết với nhau, theo đó đái tháo đường vừa là yếu tố nguy cơ vừa là hậu quả của ung thư tụy.
Ngoài ra, các nghiên cứu cũng chỉ ra người hút thuốc lá, người béo phì, ít hoạt động thể lực, người nghiện rượu cũng dễ bị ung thư tuỵ.
Mặc dù là bệnh nguy hiểm nhưng theo BS Lê Công Định, triệu chứng của ung thư tụy giai đoạn sớm thường nghèo nàn. Khi bệnh lan tràn, triệu chứng lâm sàng khá đa dạng, thay đổi tùy theo vị trí khối u và mức độ lan rộng của nó.
Theo thống kê, 60-70% u nằm ở vùng đầu tụy, 20-25% nằm ở thân/đuôi tụy, u chiếm toàn bộ thể tích của tụy chiếm tỉ lệ thấp.
Đau bụng: là một trong những dấu hiệu thường gặp nhất. Đau bụng thường bắt đầu xuất hiện trước khi phát hiện bệnh khoảng 1- 2 tháng và tăng dần theo tiến triển của bệnh nhưng ban đầu thường chỉ đau thoáng qua vùng thượng vị nên dễ nhầm với viêm dạ dày.
Đau thường khởi phát ở vùng thượng vị, khi bệnh tiến triển thường lan sang 2 bên và/hoặc xuyên ra sau lưng, cơn đau có thể không liên tục nhưng thường nặng hơn sau khi ăn hoặc khi nằm ngửa khiến người bệnh phải nằm tư thế cuộn tròn cho đỡ đau; đau nhiều ra sau lưng thường gặp khi khối u nằm ở vùng thân hoặc đuôi tụy hơn là vùng đầu tụy.
Thông thường đau bụng trong ung thư tụy xuất hiện từ từ, tăng dần theo kiểu “vết dầu loang” theo tiến triển của bệnh, song cũng có trường hợp người bệnh đột ngột đau một cách dữ dội do u làm tắc ống tụy gây viêm tụy cấp.
Ngoài ra, người mắc ung thư tuỵ thường có hội chứng tắc mật: vàng da, nước tiểu sẫm màu. Vàng da do ung thư tụy là vàng da liên tục, tăng dần do u gây tắc ống mật chính làm dịch mật từ gan không xuống được tá tràng, hậu quả là mật vào trong máu gây vàng da và nước tiểu sẫm màu. Vàng da thường gặp và xuất hiện sớm với những khối u vùng đầu tụy.
Đáng lưu ý, người bị ung thư tuỵ thường bị đi ngoài phân sống. Nguyên nhân do u gây cản trở men tụy xuống ruột non tiêu hóa thức ăn. Đây là một trong những nguyên nhân làm người bệnh ung thư tụy bị suy kiệt rất nhanh.
H. Anh