Phụ nữ được khuyến khích tham gia các hoạt động kinh tế, làm chủ doanh nghiệp
Phụ nữ được khuyến khích tham gia các hoạt động kinh tế |
Theo Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2016, tỷ lệ lao động nữ giữ ở mức ổn định 48,5% lực lượng lao động. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chênh lệch đáng kể giữa nam (82,4%) và nữ (72,5%) và không đồng đều giữa các vùng.
Tỷ lệ lao động nữ đã qua đào tạo từ 17,3% năm 2015 lên 18% năm 2016 nhưng vẫn thấp hơn nam (22,4% - 23%). Nữ chiếm 44,9% tổng số người thất nghiệp và 52,2% tổng số người thiếu việc làm. Thu nhập từ việc làm bình quân/tháng của nam giới cao hơn 10,7% so với nữ giới và thu nhập này của nam cao hơn nữ ở tất cả các nhóm chuyên môn kỹ thuật, chênh lệch lớn ở nhóm chuyên môn kỹ thuật cao.
Chưa đào tạo chuyên môn kỹ thuật (8,1%), dạy nghề (18,5%), trung cấp chuyên nghiệp (14,7%), cao đẳng (15%), đại học trở lên (19,7%). Tuổi bình quân khi nghỉ hưu của lao động nữ (54,1 tuổi 2016; 53,8 tuổi 2017) chỉ thấp hơn khoảng 3 tuổi so với lao động nam (57 tuổi).
Chỉ tiêu tỷ lệ nữ trong tổng số người được tạo việc làm mới đạt 48% ngay từ năm đầu thực hiện Chiến lược quốc gia về BĐG (so với kế hoạch là 40% cho mỗi giới) và được duy trì ổn định đến nay. Phụ nữ làm chủ cơ sở kinh doanh chiếm 31,6%.
Nhìn chung, phụ nữ được khuyến khích tham gia các hoạt động kinh tế, khởi nghiệp, làm chủ doanh nghiệp; phụ nữ nghèo, phụ nữ ở khu vực nông thôn được hỗ trợ vay vốn, tiếp cận tín dụng.
Tuy nhiên, việc tiếp cận đất đai của phụ nữ còn hạn chế ; các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ phần lớn là doanh nghiệp nhỏ và vừa, phải đối mặt với nhiều rào cản như thiếu kiến thức và kỹ năng quản lý kinh doanh, khó tiếp cận các nguồn lực và thị trường, cơ hội tham gia hoạt động thúc đẩy thương mại còn hạn chế do mạng lưới kinh doanh nhỏ hẹp và ảnh hưởng của vai trò giới liên quan đến trách nhiệm công việc gia đình.
Theo 1 nghiên cứu được tiến hành tại 10 tỉnh thì chỉ có 22% phụ nữ đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với chồng, trong khi tỷ lệ chỉ đứng tên người chồng gấp đôi.
Người lao động nữ cũng gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận cơ hội việc làm tốt, lựa chọn ngành nghề và vị trí việc làm so với lao động nam. Đa số lao động nữ làm việc trong những ngành, nghề thâm dụng lao động, trình độ chuyên môn thấp, chất lượng việc làm thiếu bền vững hoặc làm việc trong khu vực phi chính thức, điều kiện vệ sinh, an toàn lao động không đảm bảo, không tham gia hay thụ hưởng các loại bảo hiểm (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp hoặc bảo hiểm y tế).
Một số doanh nghiệp không muốn nhận lao động nữ vì ngại thực hiện chế độ thai sản và các chính sách dành riêng cho lao động nữ. Một số doanh nghiệp tìm cách chấm dứt hợp đồng lao động sau tuổi 35, trong đó, tỷ lệ nữ có xu hướng gia tăng, đặc biệt trong các ngành, lĩnh vực thâm dụng lao động, có đông nữ làm việc. Tỷ trọng lao động nữ nghỉ hưu năm 2016 từ 45% tổng số người về hưu năm 2016 đã tăng lên 48% trong 9 tháng đầu năm 2017.
Tại các các khu công nghiệp tập trung, lao động nam và nữ đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như áp lực về thời gian làm việc, thu nhập, điều kiện nuôi dạy con cái, nhà ở, tiếp cận các dịch vụ xã hội và các điều kiện sinh hoạt khác. Số lượng lao động nữ hưởng bảo hiểm thất nghiệp và hưởng bảo hiểm xã hội một lần trong hai năm 2016 - 2017 đều cao hơn so với lao động nam. Theo 1 nghiên cứu được tiến hành tại 10 tỉnh thì chỉ có 22% phụ nữ đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với chồng, trong khi tỷ lệ chỉ đứng tên người chồng gấp đôi.
Trong nhóm lao động nữ, số lao động có tuổi đời từ 35 tuổi trở xuống hưởng bảo hiểm thất nghiệp chiếm tỷ lệ 73,3% và hưởng bảo hiểm xã hội một lần là 70,4%. Trong đó, 70% lao động nữ thường làm trong các ngành, lĩnh vực như dịch vụ, dệt may, da giày; 62,4% lao động nữ làm việc trong gia đình không hưởng lương và tự làm; 41,1% lao động nữ làm những công việc giản đơn; 43,6% lao động nữ làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp.