Ô nhiễm biển: Áp lực lớn đối với Việt Nam
Ô nhiễm biển – mối quan tâm cốt lõi của toàn cầu
Tại Hội nghị "Tập huấn tuyên truyền về biển, đảo, bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa" do Bộ TT&TT tổ chức vừa diễn ra ở TP.HCM, PGS. TS. Nguyễn Bá Diến, Giám đốc Trung tâm Luật Biển và Hàng hải quốc tế đặc biệt lưu ý vấn đề khai thác, bảo vệ và giữ gìn môi trường biển: "Vấn đề ô nhiễm môi trường biển hiện đang là một trong những mối quan tâm hàng đầu của toàn thế giới. Khai thác tài nguyên luôn luôn phải đi kèm với vấn đề bảo vệ môi trường biển. Nếu khai thác mà không chú trọng đến môi trường thì tài nguyên nhanh cạn kiệt và kéo theo hàng loạt các vấn đề về môi trường như suy thoái, ô nhiễm…, không đảm bảo phát triển bền vững".
![]() |
PGS. TS. Nguyễn Bá Diến, Giám đốc Trung tâm Luật Biển và Hàng hải quốc tế đặc biệt lưu ý vấn nạn ô nhiễm môi trường biển |
Bàn về câu chuyện ô nhiễm biển, PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên & Môi trường) cho biết: "Ô nhiễm biển biểu hiện ở các dạng rất khác nhau, bao gồm: các hóa chất độc, chất thải rắn, chất thải lỏng, chất dinh dưỡng và trầm tích đưa vào biển từ các hoạt động của con người (ví dụ như, nông nghiệp, phá rừng, xả thải không qua xử lý, nuôi thủy sản...), chất phóng xạ, sự cố tràn dầu và các tàn tích như lưới đánh cá và đồ nhựa plastic đã vứt bỏ.
Gần đây, sự trải rộng khắp đại dương của các loài ngoại lai đang tăng và được biết đến như là một loại “ô nhiễm sinh học”. Ô nhiễm biển làm thay đổi các đặc trưng vật lý, hóa học và sinh học của đại dương và vùng biển ven bờ, đe dọa đa dạng sinh học và tác động đến chất lượng, năng suất và sức chống chịu của các hệ sinh thái biển. Bởi vậy nên mặc dù tác động trực tiếp của ô nhiễm biển thường chỉ mang tính cục bộ, nhưng Chương trình Môi trường của Liên hiệp quốc (UNEP) vẫn xác định ô nhiễm biển là mối quan tâm cốt lõi trong các vùng đại dương ven bờ".
Áp lực lớn đối với Việt Nam
Phân tích sâu hơn vấn đề ô nhiễm môi trường biển tại Việt Nam, TS. Trần Đức Thạnh, Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam từng rất nhiều lần quan ngại về hiện trạng môi trường biển Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức từ các hoạt động dân sinh và kinh tế trên biển và trên đất liền.
Đáng chú ý, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt, công nghiệp và y tế vùng ven biển không ngừng gia tăng qua các năm, lượng chất thải rắn phát sinh toàn dải ven biển năm 2009 là 14,03 triệu tấn; lượng thải tại các tỉnh ven biển là 5.200 – 10.300 tấn chất thải rắn/ngày; 11,8 triệu tấn nước thải/ngày; 150 – 440 tấn dầu mỡ/ngày. Chất thải rắn không được thu gom, xử lý triệt để đã gây ảnh hưởng chất lượng nước biển, đời sống dân cư vùng ven biển và gây thiệt hại cho những ngành kinh tế gắn với biển.
![]() |
Các cán bộ thông tin cơ sở ở 11 tỉnh, thành phố khu vực Tây Nguyên và Đông Nam bộ vừa được các chuyên gia cập nhật nhiều thông tin hữu ích về vấn đề ô nhiễm biển. |
Bên cạnh đó, sự cố tràn dầu diễn ra khá thường xuyên do lượng tàu bè qua lại lớn. Từ năm 1989 đến năm 2009 đã có hơn 100 vụ tràn dầu do tai nạn tàu, mỗi vụ đã đổ ra biển từ vài chục đến hàng trăm tấn dầu, gây ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế và môi trường. Ngoài ra, các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí, hoạt động của tàu thuyền đánh cá, đặc biệt là tàu thuyền nhỏ với thiết bị máy móc lạc hậu cũng là một trong những nguồn gây ô nhiễm dầu ở biển nước ta.
Mặt khác, với diện tích nông nghiệp trên 7 triệu ha, (60% là lúa), hàng năm, một dư lượng lớn phân bón hoá học và hoá chất bảo vệ thực vật theo sông ra gây ô nhiễm biển. Hoạt động du lịch cũng gây áp lực lớn cho môi trường. Tính toán năm 2003, chỉ riêng các hoạt động du lịch toàn ven biển năm đã thải ra 32.273 tấn rác và 4.817.000 m3 nước thải.
Ô nhiễm hữu cơ tuy chỉ có tính cục bộ nhưng khá cao và vượt mức cho phép ở gần các khu du lịch, đông dân như Cửa Lục, Sầm Sơn, Nha Trang và Vũng Tàu... Ở những khu vực này, phú dưỡng, thuỷ triều đỏ và tảo độc hại đã là một vấn đề môi trường nổi bật.
Ô nhiễm xuyên biên giới theo hoàn lưu xâm nhập qua tất cả các nguồn, nhưng thường xuyên, lâu dài, phức tạp và khó kiểm soát. Hoàn lưu nước ven bờ sẽ đưa một khối lượng lớn các chất thải lỏng từ vùng nước lân cận và vùng biển quốc tế vào vùng biển Việt Nam.
Đặc biệt, tình trạng nhiễm bẩn kim loại nặng chưa phổ biến nhưng ở nhiều nơi đã có biểu hiện tăng tích lũy trong nước, trầm tích và cơ thể sinh vật trở thành mối hiểm họa lâu dài cho môi trường biển, nhất là đối với các kim loại nặng có độc tính như chì, cadimi, asen, thủy ngân... Chẳng hạn như đã có lượng lớn cyanua xuất hiện do hoạt động tách chiết vàng trên lưu vực và gây mê đánh bắt hải sản vào cuối những năm 90. Gần đây, câu chuyện chất cyanua lại vừa bùng lên trong sự kiện ô nhiễm biển 4 tỉnh Bắc Trung Bộ liên quan đến hoạt động xả thải phi pháp của nhà máy Formosa.
Hoặc ô nhiễm nhóm chất hữu cơ bền có độc tính cao (POPs), bao gồm dư lượng hoá chất bảo vệ thực vật nhóm OCPs và các các chất hữu cơ bên có độc tính thuộc các nhóm PCBs và PAHs có biểu hiện tích lũy, thậm chí vượt giới hạn cho phép tại một số điểm. Trong vụ ô nhiễm Formosa hồi tháng 4/2016, phenol là thành phần ô nhiễm chính cùng cyanua gây thảm họa cá chết hàng loạt ở các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế.
"Cùng với sự phát triển công nghiệp và tăng trưởng kinh tế, các chất ô nhiễm có độc tính thuộc nhóm hữu cơ bền bước đầu nhận thấy có sự tích luỹ trong trầm tích và cơ thể sinh vật, gây nguy hại lâu dài cho an toàn thực phẩm và sức khoẻ cộng đồng, nhưng vẫn đề này chưa được quan tâm đánh giá đúng mức", TS. Nguyễn Đức Thạnh cảnh báo.