Những tồn tại, hạn chế trong xây dựng nông thôn mới
Cụ thể như, phát triển nông thôn chưa gắn kết với đô thị, chênh lệch thu nhập giữa nông thôn thành thị ngày càng cao, sinh kế cư dân nông thôn thiếu bền vững.
Ngay kể cả các xã, huyện ven đô cũng rất lúng túng khi xây dựng NTM do chưa rõ định hướng kết nối với phát triển đô thị. Khoảng cách tuyệt đối về thu nhập giữa nông thôn và đô thị ngày càng tăng lên từ 12,7 triệu/người/năm 2010 lên 31,6 triệu đồng/người/năm 2018.
Thu nhập của cư dân nông thôn có xu hướng ngày càng phụ thuộc vào nguồn tiền của con cái/người thân từ đô thị gửi về. Khoảng 50% khác biệt về thu nhập giữa xã đạt chuẩn NTM và xã chưa đạt chuẩn chủ yếu là nhờ nguồn tiền từ các lao động di cư hoặc người thân gửi về.
Tỷ lệ hộ nông thôn nhận hỗ trợ từ con cái tại các xã đạt chuẩn NTM là 30,1%, trong khi tại các xã chưa đạt chuẩn chỉ là 25,2%. Tuy nhiên, nguồn hỗ trợ này cũng không ổn định vì đa số lao động rời khỏi nông thôn hoạt động dưới dạng “không chính thức”, chưa được bảo vệ đầy đủ quyền lợi và thiếu ổn định về tương lai.
Phân hóa nông thôn tiến triển mạnh, chênh lệch thu nhập giữa 20% nhóm hộ giàu nhất và 20% nhóm hộ nghèo nhất trong nông thôn tăng mạnh, từ 7,5 lần năm 2010 lên 8,6 lần năm 2018. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn cao gấp 4 lần đô thị.
![]() |
Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn cao gấp 4 lần đô thị. |
Với xuất phát điểm thấp, thu nhập thấp của các nhóm nghèo, địa bàn nghèo, cần tập trung nhiều hơn nữa sự hỗ trợ trong Chương trình xây dựng NTM cho các xã chưa đạt chuẩn NTM, đặc biệt tại các xã khó khăn hơn là chỉ chú trọng đến các xã có điều kiện để nhanh đạt thành tích về xây dựng NTM.
Cũng theo bản đánh giá của BCN, quá trình xây dựng NTM chưa gắn chặt với cơ cấu lại ngành nông nghiệp. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, ưu tiên cho phát triển hạ tầng trong xây dựng NTM nhưng hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện nhiều nơi còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn.
Đầu tư xã hội cho nông nghiệp thấp, chỉ khoảng 3 tỷ USD/năm, trong đó 50% là ngân sách nhà nước, chỉ có 16,7% là của doanh nghiệp.
Liên kết yếu giữa người sản xuất và doanh nghiệp yếu. Cụ thể trong mô hình cánh đồng lớn, tỷ lệ diện tích được ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm trước khi sản xuất chỉ ở mức dưới 30% và tỷ lệ này thấp nhất ở những vùng sản xuất nông nghiệp chính như Đồng bằng sông Hồng, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long. Việc hình thành và tái cơ cấu HTX chưa đủ mạnh, nhiều HTX thành lập trước đây qua việc hoàn thành các tiêu chí NTM đều chưa được tổ chức và triển khai theo Luật HTX, chưa thực hiện được bản chất của HTX, như mới tham gia theo hình thức "đánh trống ghi tên", chưa tổ chức đúng bản chất của HTX, các giám đốc HTX chưa biết mình là ai, từ đó lúng túng trong cách quản trị, sản xuất và kinh doanh.
Vai trò chủ thể của nông dân chưa được đề cao, trong khi những lực lượng mới cho phát triển nông thôn chưa được phát huy đúng tiềm năng. Điều tra năm 2019 của IPSARD cho thấy chỉ có 68,1% số hộ cho biết mình có quyền tham gia ý kiến vào quy hoạch, kế hoạch, đề án NTM của địa phương; chỉ có 55% số hộ cho biết mình có quyền tham gia ý kiến lựa chọn công trình, dự án; 66,9% số hộ cho biết mình có quyền giám sát quá trình thực hiện các dự án NTM… Có những trường hợp người địa phương được phỏng vấn không biết rằng xã mình đã đạt chuẩn NTM.
Kinh tế hộ nhỏ lẻ vẫn chiếm tỷ trọng cao và đang bộc lộ những hạn chế, yếu kém cản trở quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp. Trong khi đó, sự phát triển của kinh tế gia trại, trang trại còn hạn chế, số lượng ít (chỉ chiếm 0,4% số hộ nông nghiệp), quy mô nhỏ (chỉ tương đương ở mức kinh tế hộ ở các nước khác) do những cản trở trong chính sách đất đai.
Doanh nghiệp chưa được phát huy hết tiềm năng trong phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng NTM.Vẫn còn những e ngại của các cấp quản lý đối với xung đột quyền lợi giữa nông dân với doanh nghiệp nên chưa có chủ trương và hành động quyết liệt để tạo dựng và phát huy đầy đủ xung lực của những lực lượng mới cho phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng NTM.
Một số giá trị văn hóa truyền thống bị phai nhạt, tính gắn kết cộng đồng bị xói mòn. Khảo sát của IPSARD phối hợp với một số tổ chức nghiên cứu cho thấy tỷ lệ hộ nông thôn có bất hòa hoặc xung đột trong gia đình hoặc với hộ khác tăng lên từ 0,4% năm 2010 đến 1% năm 2018; trong đó tỷ lệ này thậm chí còn cao hơn ở các xã đạt chuẩn NTM ở mức 1,9% năm 2018 so với xã chưa đạt NTM ở mức 0,2%.
Tệ nạn xã hội, trật tự an toàn xã hội một số nơi gia tăng, một số vụ án gây bức xúc trong dư luận xã hội. Mặc dù cư dân nông thôn vẫn còn niềm tin cao vào cộng đồng, hàng xóm (ở mức trên 80% số người được hỏi) nhưng họ ngày càng lo ngại về sự gia tăng của các tệ nạn xã hội ở nông thôn (ở mức 70% số người được hỏi).
Tệ nạn ma túy, tín dụng đen ngày càng trở thành vấn đề nổi cộm trong nông thôn. Đã và đang phát sinh nhiều vấn đề bức xúc, khiếu kiện đông người, kéo dài, vượt cấp liên quan tới thu hồi đất đai và ô nhiễm môi trường vẫn tiếp diễn mà không được xử lý triệt để, có nguy cơ đe dọa sự ổn định về chính trị trên địa bàn.
Tình trạng ô nhiễm môi trường nông thôn có xu hướng gia tăng;ứng phó rủi ro, biến đổi khí hậu còn hạn chế. Đô thị hóa, công nghiệp hóa gắn với việc quy hoạch phát triển kinh tế xã hội thiếu đồng bộ, thiếu tổng thể đã góp phần phá vỡ các cảnh quan tự nhiên, các cảnh quan bản địa/truyền thống; làm suy giảm các chức năng sinh thái của vùng nông thôn; gia tăng ô nhiễm không khí, tiếng ồn và nước thải công nghiệp tại chỗ ở các vùng nông thôn.
Tác động của biến đổi khí hậu tới nông nghiệp và nông thôn đã và đang ngày càng gia tăng và rõ rệt hơn, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất nông nghiệp và đời sống của người dân.Nhiều xã vừa được công nhận là xã NTM nhưng chỉ sau một trận lũ, cơn bão đã phá hủy, thậm chí xóa sổ nhiều công trình.