Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận cung cấp nguồn điện năng lớn trong tương lai
Sự xuất hiện của nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 sẽ đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu thụ điện tăng cao của nền kinh tế, đặc biệt là cho miền Nam. Tuy nhiên, do quy mô công suất lớn, cùng với khoảng cách truyền tải xa đã dẫn tới những thách thức cho việc thiết kế hệ thống truyền tải, cũng như khả năng thích ứng của lưới điện.
Việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân (ĐHN) Ninh Thuận 1 và 2 đã được Quốc hội phê chuẩn chủ trương đầu tư từ năm 2009, với quy mô công suất của 2 nhà máy ĐHN là 4.000 MW. Cùng với các nhà máy thủy điện và nhiệt điện chạy than, khu vực Nam Trung Bộ sẽ trở thành trung tâm nguồn lớn nhất cả nước. Khoảng cách truyền tải 250-300 km về miền Đông Nam Bộ sẽ là một thách thức lớn đối với sự vận hành an toàn, tin cậy của các nhà máy.
Sự xuất hiện của nhà máy ĐHN Ninh Thuận 1 và 2 sẽ đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu thụ điện tăng cao của miền Nam. Tuy nhiên, do quy mô công suất lớn, cùng với khoảng cách truyền tải xa đã dẫn tới những thách thức cho việc thiết kế hệ thống truyền tải cũng như khả năng thích ứng của lưới điện. Nghiên cứu này phân tích sự ảnh hưởng của các tổ máy ĐHN tới vận hành lưới điện trên quan điểm ổn định hệ thống điện. Nghiên cứu đã tính ra hằng số công suất - tần số của hệ thống điện Việt Nam khoảng 1,74%/0,1 Hz, thể hiện khả năng hấp thụ tốt tổ máy ĐHN cỡ 1000 MW.
Mô phỏng ổn định động tính được thời gian cắt giới hạn của lưới 500 kV khu vực khi sự cố N-1 là từ 208-244 ms. Giá trị này cao hơn nhiều so với thời gian cắt định mức quy định của Việt Nam là 80 ms, cao hơn ngưỡng khuyến cáo của nhà sản suất máy phát ĐHN (150 ms). Đối với trường hợp vận hành bình thường, giới hạn truyền tải của 10 đường dây 500 kV từ cụm nguồn ĐHN truyền tải về Đông Nam Bộ đạt khoảng 13,534 MW, mức độ dự trữ ổn định là 22,7%. Khi sự cố N-1 mức độ dự trữ ổn định là 17,1-18,8%, khi sự cố N-2 thì dự trữ ổn định đạt 10,4-13,7%.
Do đó, biện pháp nâng cao giới hạn ổn định tĩnh hệ thống bằng việc đặt tụ bù ngang tại khu vực 7 vị trí trạm 500 kV đầu mối với tổng dung lượng 700 MVAr. Kết quả tính toán cho thấy, các giới hạn ổn định tĩnh hệ thống được nâng lên rõ rệt: ở điều kiện vận hành bình thường, dự trữ ổn định đạt 26,9%; tiêu chí N-1 đã đáp ứng được mức độ dự phòng ổn định của hệ thống trên 20%.
Khác với các nhà máy điện thông thường, nhà máy ĐHN có những yêu cầu tương đối nghiêm ngặt về chế độ vận hành trong hệ thống điện.
Theo ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, điện hạt nhân mang tầm chiến lược do nhu cầu sử dụng điện của Việt Nam đã được nêu trong chiến lược, cũng như quy hoạch ngày càng tăng, cuộc khủng hoảng cung - cầu điện năng sẽ ngày càng gay gắt gấp bội. Trước tình thế đó cũng như các giải pháp nguồn điện và sử dụng điện đều có mặt hạn chế thì ĐHN đương nhiên nằm trong tầm ngắm của các nhà chiến lược và công nghệ năng lượng nước ta.
Điện hạt nhân là sự hội tụ những ưu điểm nội tại về mặt công nghệ và kinh tế, mặt khác cũng thích ứng với chiều hướng hồi sinh của ĐHN trên thế giới ở thời điểm hiện nay. Dù vẫn còn những lo lắng về tính an toàn lò phản ứng hạt nhân và việc chôn cất chất phóng xạ, đặc biệt là sự cố Chernobyl và Fukushima đã xảy ra, nhưng sự vận hành an toàn của hàng trăm lò phản ứng rải rác trên thế giới, cũng như sự xuất hiện nhiều biện pháp an toàn khác nhau đã đem lại niềm tin mới cho dân chúng đối với công nghệ ĐHN.
Đặc biệt, trong xu thế của thế giới đối phó hiểm họa biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay, ĐHN quả là sự lựa chọn thích hợp, góp phần tích cực thay thế các NMNĐ sự dụng nhiên liệu hóa thạch, nhằm giảm hạn chế phát thải khí ô nhiễm môi trường, gây hiệu ứng nhà kính. Các yếu tố quan trọng khác đối với những nước đang phát triển như nước ta là điều kiện khá thuận lợi trong việc nhập công nghệ NMĐHN từ các nước tiên tiến và sự bảo đảm chắc chắn nguồn nhiên liệu uranium nội địa và ngoại nhập trong bối cảnh quốc tế hiện nay.
Tất cả những yếu tố trên, cùng với thành tựu chế tạo được tổ máy công suất lớn của các lò phản ứng hạt nhân năng lượng, trên thị trường thế giới đã mở ra khả năng đáp ứng phần đáng kể nhu cầu điện năng cho đất nước trong tương lai (từ sau năm 2020 đến giữa thế kỷ 21). Vì lẽ đó, phát triển ĐHN đã trở thành nhiệm vụ mang tầm chiến lược của quốc gia hiện nay.
Đối với dự án xây dựng NMĐHN trên địa bàn Ninh Thuận, ngày 13/4/2015 vừa qua khi đến thăm tỉnh Ninh Thuận, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: “Mặc dù đây là công trình có vốn đầu tư rất lớn, nhằm đảm bảo nguồn điện năng cho đất nước, nhưng yêu cầu đầu tiên và cao nhất vẫn là bảo đảm an toàn bằng mọi giá. Do đó, dự án này được Chính phủ hết sức quan tâm và triển khai một cách thận trọng
theo đúng quy trình đặt ra”. Thủ tướng cũng tán thành các giải pháp của các bộ, ngành và tỉnh Ninh Thuận nhằm nhanh chóng tháo gỡ khó khăn cho người dân trên địa bàn, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới.