Mỹ xem xét công nhận kinh tế thị trường của VN: Bệ phóng cho hàng xuất khẩu
Cuối tháng 10 vừa qua, Mỹ đã đăng công báo về việc nước này khởi xướng rà soát thay đổi hoàn cảnh để xem xét vấn đề kinh tế thị trường (KTTT) của Việt Nam.
PV. VietNamNet đã có cuộc trao đổi với ông Trịnh Anh Tuấn, Cục trưởng Cục Phòng vệ Thương Mại (Bộ Công Thương) về vấn đề này.
Bối cảnh thuận lợi và động thái tích cực của Mỹ
- Ông có thể cho biết, quá trình Mỹ khởi xướng rà soát thay đổi hoàn cảnh để công nhận Việt Nam là nền KTTT sẽ diễn ra theo quy trình ra sao, thời hạn thế nào để đi đến ban hành kết luận cuối cùng đối với vấn đề KTTT của Việt Nam?
Ông Trịnh Anh Tuấn:
Ngày 8/9/2023, Bộ Công Thương đã nộp hồ sơ đề nghị Bộ Thương mại Mỹ (DOC) khởi xướng rà soát thay đổi hoàn cảnh (CCR) để công nhận Việt Nam là nền KTTT trong khuôn khổ vụ việc rà soát hành chính lần thứ nhất thuế chống bán phá giá (CBPG) đối với mật ong lên Cổng thông tin điện tử về phòng vệ thương mại (PVTM) của Mỹ (ACCESS). Theo quy định của Mỹ, DOC có 45 ngày để xem xét khởi xướng CCR.
Ngày 23/10/2023, DOC đã chính thức khởi xướng CCR để xem xét lại vấn đề KTTT cho Việt Nam. Theo đó, trừ khi được gia hạn, các bên liên quan sẽ có 30 ngày kể từ ngày đăng thông tin tại Công báo Liên bang (ngày 30/10) để nộp ý kiến bình luận (thời hạn đến ngày 29/11/2023) và 14 ngày tiếp theo để nộp ý kiến phản biện (thời hạn đến 13/12/2023). Theo quy trình thủ tục của vụ việc CCR, trừ khi gia hạn vụ việc, DOC sẽ có 270 ngày kể từ ngày khởi xướng để hoàn thành cuộc rà soát này và ban hành kết luận cuối cùng (dự kiến đến ngày 26/7/2024).
- Ông đánh giá thế nào về hành động này của Mỹ, khi mà gần đây lãnh đạo cấp cao của chúng ta liên tục đề cập đề nghị Mỹ sớm công nhận Việt Nam là quốc gia có nền KTTT?
Có thể nói, vấn đề KTTT là một trong những vấn đề quan trọng mà hai quốc gia đang quan tâm và đã được đưa vào Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt Nam - Mỹ. Vì vậy, việc Mỹ khởi xướng rà soát thay đổi hoàn cảnh để xem xét vấn đề KTTT cho Việt Nam được xem là một động thái tích cực, thiện chí từ phía bạn.
Tuy nhiên, để xem xét vấn đề KTTT của Việt Nam cần tuân theo các quy định pháp luật của Mỹ. Quá trình này đòi hỏi sự tham gia của Chính phủ Việt Nam, các tổ chức, cá nhân, hiệp hội, ngành hàng, doanh nghiệp liên quan và cần tuân thủ theo đúng thời hạn mà Mỹ đề ra. Bộ Công Thương đang phối hợp với các bộ, ngành liên quan để tham gia quy trình điều tra của Mỹ.
Bối cảnh hiện nay tạo cho chúng ta một số thuận lợi, đặc biệt là sự công nhận của nhiều quốc gia về nền kinh tế của Việt Nam và sự hội nhập tích cực vào các hiệp định thương mại tự do song phương cũng như đa phương. Hiện có 72 quốc gia công nhận Việt Nam hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, trong đó có Vương quốc Anh, Canada, Úc, Nhật Bản.
Việt Nam cũng đã ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương, khoảng 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Tính đến tháng 8/2023, Việt Nam là thành viên của 16 hiệp định thương mại tự do (FTAs) với sự tham gia của khoảng 60 nền kinh tế, trong đó có 15 FTAs đã có hiệu lực và 1 FTA mới chính thức ký kết. Việt Nam đang đàm phán 3 FTAs khác.
Trong đó, có nhiều FTAs thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, đáp ứng các tiêu chuẩn cao về những lĩnh vực truyền thống như thương mại hàng hoá và dịch vụ, những lĩnh vực mới như lao động, môi trường, mua sắm chính phủ, minh bạch hoá, cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư, doanh nghiệp nhà nước.
"Nhiệm vụ hết sức khẩn trương"
- Vậy trong thời gian qua, Bộ Công Thương đã có những bước đi, chuẩn bị cụ thể như thế nào để góp phần thúc đẩy quá trình Mỹ sớm công nhận Việt Nam là quốc gia có nền KTTT?
Theo quy định của Mỹ, để công nhận một quốc gia có nền KTTT là một quy trình xem xét chặt chẽ 6 tiêu chí theo quy định pháp luật về kinh tế vĩ mô và môi trường kinh doanh của quốc gia đó, bao gồm: Mức độ chuyển đổi của đồng tiền; Vấn đề đàm phán tiền lương, tiền công giữa người lao động và người sử dụng lao động; Mức độ đầu tư nước ngoài vào các hoạt động kinh tế; Vấn đề sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân; Mức độ kiểm soát của Chính phủ với một số nguồn lực và giá cả; Các yếu tố khác.
Từ năm 2008, Việt Nam và Mỹ đã thành lập Nhóm công tác song phương về vấn đề KTTT (Structural Issues Working Group - SIWG) và đã tổ chức 10 phiên họp kỹ thuật để trao đổi thông tin theo 6 tiêu chí của Mỹ, giúp Mỹ cập nhật về những tiến triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua, tạo tiền đề cho bạn có cơ sở nhìn nhận và xem xét lại vấn đề KTTT cho Việt Nam.
Thời gian vừa qua, Bộ Công Thương đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, các hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước phân tích, tổng hợp thông tin theo đề nghị của DOC về sự thay đổi tích cực của nền kinh tế Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến mức độ mở cửa của nền kinh tế, chính sách thương mại, chính sách tiền tệ, đầu tư nước ngoài và những tiến bộ trong công tác hội nhập đáp ứng 6 tiêu chí của Mỹ về quốc gia có nền KTTT.
Để chủ động và có sự chuẩn bị tốt khi tham gia vào quy trình tố tụng rà soát thay đổi hoàn cảnh một vụ việc phòng vệ thương mại nhằm chứng minh chúng ta là nước có nền KTTT, Bộ Công Thương cũng đã và đang xây dựng các lập luận phản hồi, giải thích, làm rõ hoặc phản bác lại ý kiến của các bên liên quan khác đối với vấn đề KTTT của Việt Nam.
Công tác thúc đẩy Mỹ công nhận Việt Nam là quốc gia có nền KTTT là nhiệm vụ hết sức khẩn trương và cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Để triển khai công tác này một cách hệ thống, đồng bộ và toàn diện, cần có sự phối hợp chặt chẽ của các bộ ngành, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân liên quan.
- Hiện nay, Mỹ vẫn là nước điều tra, áp dụng biện pháp PVTM nhiều nhất đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, vậy nếu được công nhận là KTTT thì nền kinh tế Việt Nam sẽ có những thuận lợi gì?
Trong bối cảnh xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ đang ngày càng gia tăng (với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 109,39 tỷ USD năm 2022), việc được công nhận vấn đề KTTT có ý nghĩa rất lớn cho các ngành sản xuất, xuất khẩu của ta, tạo ra lợi thế cạnh tranh bình đẳng giữa hàng hóa của ta đối với hàng hóa xuất khẩu của các quốc gia khác khi mức thuế PVTM phản ánh đúng thực tiễn sản xuất tại Việt Nam. Vấn đề KTTT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc các vụ việc PVTM.
Cụ thể, trong các vụ việc chống bán phá giá (CBPG): Việc bị coi là nền kinh tế phi thị trường dẫn đến các nguyên tắc tính toán giá thông thường sẽ không được sử dụng, nước điều tra PVTM sẽ sử dụng nước thứ ba để tính toán giá thay thế khi tính biên độ phá giá, khiến cho biên độ phá giá thường rất cao, không phản ánh đúng thực tiễn sản xuất của Việt Nam. Điều này tạo ra bất lợi rất lớn đối với hàng hóa xuất khẩu khi không thể cạnh tranh với hàng hóa xuất khẩu từ quốc gia khác. Ví dụ, trong vụ việc điều tra CBPG với sản phẩm mật ong, biên độ phá giá cao Mỹ tính cho các doanh nghiệp Việt có mức thuế sơ bộ lên đến hơn 410% và cuối cùng lên tới 60%.
Trong các vụ việc Mỹ điều tra chống lẩn tránh thuế CBPG/chống trợ cấp đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, Mỹ có áp dụng phương pháp dành cho các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường để tính chi phí sản xuất tại Việt Nam nhằm xác định quá trình lắp ráp hoặc hoàn thiện tại Việt Nam có đáng kể hay không.
Bên cạnh đó là quy định thuế suất toàn quốc gây cản trở việc dỡ bỏ lệnh áp thuế. Cụ thể, việc coi Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường cho phép DOC áp dụng thuế suất toàn quốc - là mức thuế dành cho các doanh nghiệp không hợp tác hoặc không chứng minh được họ không chịu sự kiểm soát của Chính phủ. Thuế suất toàn quốc thường được tính toán dựa trên dữ liệu sẵn có nên bị đẩy lên rất cao, tương đương lệnh cấm và được duy trì trong tất cả các đợt rà soát, gây cản trở cho việc xem xét dỡ bỏ lệnh áp thuế.
Ngoài ra, việc thay đổi quốc gia làm giá trị thay thế cho Việt Nam khiến doanh nghiệp không chủ động, kiểm soát được mức thuế CBPG, thường nhận mức thuế cao. Điển hình trong nhiều vụ việc như cá tra, basa hay tôm, Mỹ đã sử dụng giá trị thông thường của một số quốc gia như Bangladesh, Indonesia, Ấn Độ, Philippines làm giá trị thay thế khi tính biên độ bán phá giá cho Việt Nam. Với việc thường xuyên thay đổi quốc gia thay thế trong các đợt rà soát, doanh nghiệp cá tra, basa và tôm Việt Nam nhiều lần bị nhận mức thuế cao.
- Xin cảm ơn ông!