Làm sao để phát triển kinh tế biển từ “nâu” sang “xanh”?
Thay đổi tư duy và tầm nhìn cùng với việc xây dựng một Chiến lược phát triển kinh tế biển bền vững nhằm đảm bảo an ninh năng lượng, phát triển kinh tế biển xanh và bền vững. Áp dụng các giải pháp khai thác giá trị chức năng, phi vật chất và có khả năng tái tạo của hệ thống tài nguyên biển, ven biển và hải đảo.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách biển quốc gia, địa phương theo cách tiếp cận liên ngành để quản lý tổng hợp và thống nhất về mặt quản lý nhà nước với biển, đảo, phục vụ phát triển kinh tế biển xanh và bền vững. Đồng thời chú trọng liên kết trong phát triển kinh tế biển, đồng thời giảm thiểu các mâu thuẫn trong phát triển.
Kiểm kê và lượng giá “nguồn vốn tự nhiên biển” làm căn cứ triển khai các quy hoạch dài hạn sử dụng biển đảo ở cấp độ quốc gia theo cách tiếp cận dựa vào hệ sinh thái, phục vụ quá trình ra quyết định đầu tư xanh và có trách nhiệm đối với các hoạt động khai thác và sử dụng biển, đảo và vùng ven biển.
Phát triển kinh tế biển từ "nâu" sang "xanh" |
Bên cạnh đó, phát triển và quản lý hiệu quả nghề cá và du lịch biển theo cách tiếp cận dựa vào hệ sinh thái trong khả năng chống chịu và bảo toàn các giá trị chức năng của hệ sinh thái mà nghề cá và du lịch biển phụ thuộc vào.
Ngoài ra chúng ta cũng cần chú trọng quy hoạch mở rộng cũng như quản lý hiệu quả hệ thống khu bảo tồn biển đến năm 2020 để phát triển nghề cá và du lịch sinh thái biển bền vững; tiếp tục đánh giá các vùng biển đảo, ven biển giàu đẹp có gái trị quốc gia, quốc tế để trình cấp có thẩm quyền hoặc các tổ chức quốc tế công nhận và vinh danh.
Chúng ta cũng phấn đấu đến năm 2020 có 10% diện tích vùng lãnh hải được bảo tồn và 30% đến năm 2030. Cùng với đó, chúng ta phải tập trung nguồn lực để ngăn gừa và phục hồi habitat đã bị mất, các hệ sinh thái quan trọng (san hô, rừng ngập mặn, thảm biển đỏ), nguồn lợi và nguồn giống hải sản tự nhiên đã bị suy thoái. Bên cạnh đó cũng phải chú ý đảm bảo phúc lợi xã hội và sinh kế của các cộng đồng cư dân ven biển và trên đảo.
Quản lý và xử lý hiệu quả các chất thải, chất gây ô nhiễm trước khi đổ ra biển từ các lưu vực sông ven biển, trên hải đảo và các hoạt động kinh tế biển. Kiểm kê năm 2020 ở nước ta cho thấy 30 – 70% tải lượng chất gây ô nhiễm biển là từ đất liền, từ các lưu vực sông. Do đó, cách tiếp cận “từ đầu nguồn xuống biển” cần sớm được áp dụng trong lập kế hoạch phát triển và quản lý biển cũng như vùng ven biển để giảm thiểu tác động từ đất liền.
Tiếp tục thực hiện quản lý tổng hợp vùng bờ biển bao gồm cơ chế phối hợp liên ngành, phối hợp giữa trung ương và địa phương, phân vùng chức năng vùng bờ cho phát triển bền vững trên cơ sở lồng ghép tác động của biển đổi khí hậu và mực nước biển dâng. Phấn đầu đến năm 2020 toàn bộ dải bờ biển của 28 tỉnh ven biển được áp dụng phương thức quản lý tổng hợp ở mức độ khác nhau trong đó 20% quản lý hiệu quả.
Xây dựng năng lực giám sát, quan trắc, giảm thiểu và xử lý các thảm họa thiên tai, sự cố môi trường biển, ven biển và hải đảo. Đồng thời đưa các cân nhắc và các vấn đề môi trường, tài nguyên biển và các rủi ro vào đầu tư phát triển, các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở vùng biển, ven biển và hải đảo.
Khuyến khích cộng đồng địa phương tham gia vào tiến trình quản trị biển, đảo thông qua áp dụng cách tiếp cận quản lý biển không gian và cơ chế đồng quản lý biển, đảo dựa vào cộng đồng (nhà nước và nhân dân cùng làm, cùng hưởng). Kết hợp thường xuyên nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư ven biển và trên các đảo về kinh tế biển xanh, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Cuối cùng là xây dựng và triển khai lộ trình phát triển khoa học công nghệ biển và hợp tác quốc tế về biển trong áp dụng công nghệ biển sạch hơn, ít cacbon, ít chất thải trong các ngành kinh tế biển và lĩnh vực du lịch biển.