Hạ tầng thông tin biển được xây dựng thế nào trong thời gian tới?
Hiện có hơn 702 cơ sở đóng sửa tàu thuyền và hàng năm có thể đóng mới 4.000 chiếc và sửa chữa 8.000 chiếc dọc ven biển. Nhưng số cơ sở khả năng đóng mới và lắp đặt máy cho các loại tàu có công suất trên 600 CV rất ít, năng lực đóng mới vỏ sắt còn hạn chế, chỉ tập trung vào Xí nghiệp cơ khí Hạ Long, Nhà Bè, Vật Cách.
Hiện có 10 cơ sở gia công sản xuất lưới sợi quy mô lớn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất và nhiều loại lưới phải nhập khẩu. Có 120 nhà máy sản xuất nước đá, khả năng cung cấp nước đá 2.875 tấn/ngày, đảm bảo nhu cầu sử dụng nước đá của các tàu và các nhà máy chế biến.
Hiện chỉ có 81 chợ cá, có 564 cơ sở chế biến xuất khẩu thủy sản thủ công, quy mô nhỏ ở các địa phương ven biển, hiện cũng đã đầu tư và đưa vào hoạt động 3 trung tâm quốc gia giống hải sản (Bắc, Trung, Nam) và 3 trung tâm giống hải sản cấp 1 (Ninh Thuận, Bạc Liêu, Kiên Giang) và 6 khu sản xuất giống hải sản tập trung (Ninh Phước, Ninh Vân, Ngọc Hiển, Hiệp Thành, Phú Quốc, Thăng Bình), có 2.464 trại tôm sú, 316 trại tôm he chân trắng, 528 trại giống nhuyễn thể và 28 trại sản xuất giống cá biển.
Hệ thống hạ tầng thông tin tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ trên biển: Đến nay các vùng biển, ven biển và các đảo trọng yếu cơ bản đã được phủ sóng mạng thông tin duyên hải, mạng thông tin di động mặt đất, thông tin liên lạc phục vụ biển ssaor, mạng thông tin vệ tinh và phủ sóng đài phát thanh. Đối với hệ thống mạng thông tin duyên hải đã được đầu tư gồm 1 trung tâm xử lý thông tin hàng hải, 29 đài thông tin duyên hải đặt từ Móng Cái đến Hà Tiên và một số đảo.
Hệ thống mạng thông tin di động mặt đất đã được phủ sóng khắp các đảo và vùng ven biển, bao gồm các trạm BTS 2G, 3G cũng như hệ thống cáp quang và tuyến viba. Mạng thông tin vệ tinh đều được đầu tư gồm hệ thống thông tin cố định vệ tinh VSAT và hệ thống thông tin di động vệ tinh toàn cầu có thể phủ sóng cho tất cả những vùng xa, biên giới, hải đảo và cung cấp dịch vụ viễn thông phục vụ cấp cứu, an toàn hàng hải, trợ giúp điều hành bay, thăm dò dầu khí và đánh bắt hải sản.
Chúng ta còn quản lý, khai thác đài thu và xử lý tín hiệu cấp cứu qua hệ thống vệ tinh cho toàn bộ vùng biển Việt Nam, vùng biển quốc tế, cung cấp dịch vụ viễn thông cố định vệ tinh vùng biển, đảo xa thông qua các trạm VSAT.
Ngoài ra, hiện nay Việt Nam tham gia đầu tư 5 tuyến cáp quang biển quốc tế và 2 tuyến cáp quang biển trong nước nhằm đảm bảo thông tin liên lạc trên biển, bảo đảm chủ quyền lãnh thổ Việt nam. Năm 2010, đài tiếng nói Việt Nam cũng đã triển khai dự án “phủ sóng biển Đông”.
Về hệ thống cung cấp điện và nước sạch trên các đảo cho đến nay đã có đảo Vân Đốn, Cát Hải, Phú Quý, Phú Quốc, Cô Tô, Cồn Cỏ, Lý Sơn…được sử dụng điện lưới quốc gia, một số đảo sử dụng nguồn điện mặt trời và phong điện. Mặc dù chúng ta đã đầu tư nhiều công trình cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt trên các đảo đông người, đang xây dựng hồ nước Đông Dương trên huyện đảo Phú Quốc nhưng hiện trên các tuyến đảo xa nguồn nước ngọt vẫn bị động và chủ yếu từ nước mưa hoặc được cung cấp từ đất liền ra.
Về hạ tầng y tế biển: Đến nay đã thành lập một số viện, trung tâm chuyên ngành về nghiên cứu, ứng dụng liên quan đến y học biển như: Viện Y học Hải Dương, viện Y Học biển, trung tâm y học biển. Đồng thời xây dựng, cải tạo và nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện, đã đầu tư 7/12 huyện đảo.
Bên cạnh đó, đầu tư thiết bị buồng cao áp để phát triển y học dưới nước và áp suất cao. Qua đó đã có đóng góp lớn cho việc nâng cao sức khỏe người dân, ngư dân, thủy thủ và các chiến sĩ tham gia hoạt động trên biển.