Gần 99% số xã đạt tiêu chí quy hoạch xây dựng nông thôn mới
Có thể nói, sau 5 năm thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới thì thành tựu nổi bật nhất là phát triển cơ sở hạ tầng.
Đó là báo cáo tổng kết của Thường trực ban chỉ đạo Trung ương chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Tuy vậy, Ban chỉ đạo cũng cho rằng chất lượng các đồ án quy hoạch của nhiều xã còn thấp, đặc biệt, quy hoạch xây dựng nông thôn mới của nhiều xã chưa gắn với tái cơ cấu nông nghiệp, thiếu tính liên kết vùng. Việc quản lý xây dựng nông thôn mới theo quy hoạch còn thiếu chặt chẽ.
Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội được đánh giá là khâu đột phá, được nhân dân đặc biệt quan tâm. Sau 5 năm thực hiện, hạ tầng nông thôn đã có những bước phát triển vượt bậc.
Cụ thể, về giao thông nông thôn: Đến nay, cả nước có 36,4% số xã đạt tiêu chí số 2 về giao thông nông thôn. Nhiều địa phương đã có chính sách phù hợp nên đã huy động được sự tham gia tích cực của người dân, điển hình như: Chính sách hỗ trợ bình quân 170 tấn xi măng, 02 triệu đồng và toàn bộ cống qua đường (bằng 50% chi phí) để xây dựng 01 km đường bê tông của tỉnh Tuyên Quang.
Các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Thái Bình, Nam Định, Bắc Giang, Thanh Hóa, Phú Thọ, Hà Tĩnh, Phú Yên… cũng có chính sách tương tự. Do đó, hệ thống giao thông đã có bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Cả nước đã xây dựng mới được 47.436 km đường giao thông các loại đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật của Bộ GTVT, tăng 10.251 km so với cả giai đoạn 2001-2010; cải tạo sửa chữa 103.394 km, xây dựng mới và cải tạo sửa chữa 26.997 cầu...
Về Thủy lợi: Đến nay đã có 61,4% số xã đạt tiêu chí thủy lợi. Cả nước đã xây dựng, tu bổ, sửa chữa, nâng cấp được hơn 28.765 công trình thủy lợi gồm bờ bao, cống, trạm bơm phục vụ tưới tiêu; xây dựng, tu bổ sửa chữa, nâng cấp được 6.070 km đê bao, bờ bao chống lũ do xã quản lý.
Về Điện nông thôn: Đến nay, cả nước có 7.359 xã (82,4%) đạt tiêu chí số 4 về điện nông thôn. Nhiều thôn, bản vùng cao chưa có điện lưới quốc gia đã được hỗ trợ bằng máy phát điện nhỏ.
Về Trường học các cấp: đã có 42,1% số xã đạt tiêu chí số 5 về trường học. Cơ sở vật chất trường học các cấp trên địa bàn xã đã được các địa phương tập trung đầu tư xây dựng, nhất là các trường mẫu giáo, trường học nội trú, cơ bản đáp ứng được yêu cầu dạy học. Chính sách hỗ trợ học phí cho con em đồng bào dân tộc, miền núi; chính sách cho vay vốn để học tập được điều chỉnh, tạo thuận lợi cho học sinh, sinh viên từ các vùng nông thôn.
Về cơ sở vật chất văn hóa: Đến nay đã có khoảng 34,6% số xã đạt tiêu chí số 6 về cơ sở vật chất văn hóa. Cả nước hiện có 4.998 xã có Trung tâm Văn hóa - Thể thao, trong đó khoảng 30% đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; 54.391/118.034 thôn, bản, ấp (46%) có nhà văn hóa, trong đó đã đạt chuẩn là 47%.
Về chợ nông thôn: đã có 5.177 xã (58%) đạt tiêu chí số 7 về chợ nông thôn. Một số địa phương đã có cơ chế ngân sách hỗ trợ một phần vốn (20-30%) nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng chợ trên địa bàn nông thôn.
Về hệ thống trạm y tế: Đến nay đã có 67,1% số xã đạt tiêu chí số 15 về y tế. Hầu hết các xã đã có trạm y tế; 95% trạm y tế có nữ hộ sinh hoặc y sỹ sản nhi để chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ và trẻ em. Tại một số địa phương, trạm y tế xã đã có cán bộ y học dân tộc, cán bộ dược trình độ từ dược tá trở lên. Đối với y tế dưới cấp xã (thôn, ấp), khoảng 90% ấp, cụm dân cư có cán bộ y tế.
Về Bưu điện và hạ tầng công nghệ thông tin nông thôn: Có 90,9% số xã đạt tiêu chí số 8 về Bưu điện. Internet tốc độ cao đã đến được hầu hết các điểm bưu điện văn hóa xã, khoảng 55% số xã có điểm truy cập Internet công cộng, vùng phủ sóng 3G đã đạt trên 80% dân số; tỷ lệ xã có điện thoại công cộng là 97%. Hầu hết người dân khu vực nông thôn được sử dụng các dịch vụ bưu chính, viễn thông phổ cập.
Không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội mà còn tăng hưởng thụ trực tiếp cho người dân. Nhiều tiêu chí đã có mức tăng cao (tiêu chí giao thông: năm 2010 có 3,23% số xã đạt đến nay là 36,4%; cơ sở vật chất văn hóa từ 2,3% lên 34,6%;..). Nhiều địa phương dành 70-75% kinh phí xây dựng nông thôn mới cho phát triển hạ tầng và hầu hết đóng góp của người dân cũng dành cho lĩnh vực này.
Tuy nhiên, sự phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ và còn chênh lệch lớn giữa các vùng. Các địa phương Miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long có tốc độ phát triển kết cấu hạ tầng chậm do điều kiện địa hình chia cắt, suất đầu tư lớn, trong khi nguồn lực của Nhà nước cũng như khả năng đóng góp của nhân dân còn hạn chế. Một số địa phương áp dụng máy móc Bộ tiêu chí, không sát với yêu cầu thực tế gây lãng phí (chợ, nhà văn hóa, trạm y tế, đường giao thông nội đồng).
Bên cạnh đó, việc quản lý, duy tu và bảo dưỡng các công trình hạ tầng ít được chú ý, không có nguồn vốn đầu tư đảm bảo nên có nguy cơ khó đảm bảo tuổi thọ của các công trình.