Cao Bằng: Phát triển truyền thanh xã phục vụ công tác giảm nghèo thông tin
Dự án Truyền thông và giảm nghèo về thông tin là một trong 5 dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020. Việc chú trọng truyền thông nhằm nâng cao trách nhiệm của toàn xã hội về công tác giảm nghèo nhất là về thông tin.
Thế nhưng, có thể thấy, hiện nay có một bộ phận người nghèo không hoặc chưa nhận thức được mình nghèo, không tỏ ra lo lắng khi thiếu đói và thiếu các điều kiện vật chất tối thiểu trong sinh hoạt hàng ngày. Trong khi đó, lại có một số khác ý thức được điều này, nhưng ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước là nguồn lợi có một cách tự nhiên và cần phải được hưởng thường xuyên; cũng có một bộ phận khác do lười lao động, lười suy nghĩ, thờ ơ với cuộc sống của chính bản thân... Đây là một trong những nguyên nhân lý giải vì sao kết quả xóa đói, giảm nghèo (XĐGN) chưa được như mong muốn và cũng đặt ra yêu cầu đổi mới công tác truyền thông về giảm nghèo.
Hệ thống loa truyền thanh xã phục vụ công tác giảm nghèo thông tin. |
Ý thức đực điều này, thời gian qua, tỉnh Cao Bằng đã rất nỗ lực trong công tác giảm nghèo, nhất là giảm nghèo thông tin. Thông qua hoạt động truyền thông, tỉnh Cao Bằng đã giúp một bộ phận người nghèo chủ động, tranh thủ được sự giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức xã hội, từng bước vươn lên thoát nghèo.
Cụ thể, Sở Thông tin & Truyền thông tỉnh Cao Bằng đã tham mưu cho UBND tỉnh về thực hiện chi tiết tiêu chí Thông tin và Truyền thông trong Bộ tiêu chí quốc gia về giảm nghèo thông tin giai đoạn 2016-2020.
Ngoài ra, cũng tích cực hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động, đặc biệt là việc ký kết và triển khai các biên bản thỏa thuận giữa doanh nghiệp với tỉnh và các cơ quan nhà nước; Đề xuất, tham mưu thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Đề án số hoá truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất đến năm 2020 của tỉnh Cao Bằng.
Đến thời điểm hiện tại, tổng số thuê bao điện thoại toàn mạng là 503.721 thuê bao, trong đó điện thoại cố định là: 14.696 thuê bao; điện thoại di động (gồm các thuê bao trả trước và trả sau): 489.025 thuê bao; mật độ điện thoại cố định và di động ước đạt 97 thuê bao/100 dân.
Số thuê bao Internet 31.582 thuê bao (tăng 435 thuê bao), toàn tỉnh có 158/199 xã/phường, thị trấn được kết nối Internet băng rộng cố định, các xã còn lại đều có thể truy cập thông qua mạng di động băng rộng 3G. 100% số xã trong tỉnh đã được phủ sóng điện thoại di động không tăng so với tháng trước (715 vị trí trạm BTS).
Viettel đã phát sóng 201 trạm 4G khu vực thành phố Cao Bằng và các trung tâm huyện, xã. Truyền hình giao thức qua Internet là 21.917 thuê bao (tăng 70 thuê bao). Điểm giao dịch (đại lý) thông tin di động có tổng cộng là 303 điểm. Văn hóa xã 151 điểm. Tổng số trường học (trừ cấp mầm non) có Internet băng rộng là 340/465 trường (khoảng 73%).
Về dự án Công nghệ thông tin: Hiện nay Sở đang trình phê duyệt Kế hoạch lựa chọn nhà thầu thực hiện dự án: Đầu tư trang thiết bị máy tính, ứng dụng CNTT cho các bệnh viện, trung tâm y tế; Bám sát, đốc thúc các bên liên quan hoàn thành dứt điểm việc xây dựng Kiến trúc Chính quyền điện tử tỉnh Cao Bằng, hiện nay Sở đang trình Cục Tin học hóa – Bộ Thông tin và Truyền thông xin ý kiến;
Về Chương trình giảm nghèo thông tin: Tỉnh Cao Bằng đã hỗ trợ phát triển cơ sở vật chất hệ thống thông tin truyền thông nông thôn; đến nay Sở đã tiến hành phối hợp với đơn vị tư vấn khảo sát địa điểm, lắp đặt Đài truyền thanh xã năm 2017, hoàn thiện lập Báo cáo đầu tư trình cấp thẩm quyền phê duyệt;
Vì thế, đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, tác động trực tiếp đến người dân. Cụ thể như khi được tiếp cận được thông tin qua sách, báo, các phương tiện thông tin truyền thông, người dân ở những vùng đặc biệt khó khăn như xã Sơn Lập (huyện Bảo Lạc, Cao Bằng) có điều kiện học hỏi kinh nghiệm về trồng trọt và chăn nuôi từ nhiều mô hình hay, kiến thức hữu ích. Từ đó, đời sống bà con được cải thiện, từng bước thoát khỏi cái nghèo đeo bám lâu nay.
Thời gian tới, ngành thông tin tỉnh Cao Bằng tiếp tục có giải pháp tuyên truyền đặc thù để người dân dễ hiểu và làm theo, từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động, bảo đảm công tác xóa đói, giảm nghèo bền vững; từng bước giúp người dân vươn lên làm giàu.