Bất cập trong quản lý tài nguyên môi trường biển
Luật pháp về bảo vệ môi trường biển đang ngày càng được hoàn thiện với các văn bản pháp lý làm cơ sở cho việc thực thi các nội dung bảo vệ môi trường nói chung và môi trường biển nói riêng.
Hiến pháp năm 1992, Điều 29 quy định: “Các tổ chức nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, các cơ sở kinh tế xã hội và tất cả các cá nhân đều phải chấp hành các quy định của nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và hủy hoại môi trường”.
Nhiều văn bản luật và dưới luật liên quan đến công tác bảo vệ môi trường biển Việt Nam đã được ban hành. Ngoài các văn bản pháp quy nhà nước, các tỉnh và thành phố ven biển còn ban hành các quy chế, quy định liên quan đến bảo vệ tài nguyên môi trường biển địa phương mình.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn tham gia nhiều Công ước quốc tế liên quan đến tài nguyên môi trường biển.
![]() |
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet. |
Tuy nhiên, theo TS.Trần Đức Thạnh, Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam: Hệ thống chính sách, pháp luật, tổ chức quản lý tài nguyên, môi trường biển vẫn trên cơ sở tiếp cận đơn ngành, phân tán, chồng chéo, trùng lặp, thậm chí sai sót và mâu thuẫn. Còn thiếu khuôn khổ pháp lý, cơ cấu tổ chức quản lý theo vùng biển, quản lý các đảo, quần đảo, đặc biệt là các đảo, quần đảo không người.
Hệ thống và các văn bản pháp quy liên quan đến bảo vệ môi trường biển ngày càng được hoàn thiện, nhưng nhìn chung vẫn kém hiệu lực. Văn bản pháp quy về bảo vệ môi trường nói chung và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển từ nhiều nguồn khác nhau nói riêng còn thiếu, chưa đồng bộ. Hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường chưa đồng bộ, thiếu vắng các quy chuẩn về trầm tích, sinh vật... Công tác đánh giá, kiểm tra, giám sát môi trường còn lỏng lẻo và chế tài còn yếu.
“Không ít văn bản pháp lý còn xa rời thực tiển, tính khả thi không cao, chỉnh sửa liên tục, nhiều khi dẫn đến rối loạn thông tin”, TS. Trần Đức Thạnh lưu ý.
Cũng theo TS. Trần Đức Thạnh, cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước về môi trường đã có hệ thống từ trung ương đến địa phương, nhưng hoạt động chưa hiệu quả.
Nhà nước đã thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về Biển và Hải đảo ở cấp Trung ương và các tỉnh ven biển. Từ năm 1998, lực lượng Cảnh sát biển đã được thành lập, trong đó có ban chuyên trách về an toàn và bảo vệ môi trường biển. Năm 2008, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã được thành lập theo Quyết định số 116/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, có 15 nhiệm vụ và quyền hạn đi kèm, trong đó có nhiệm vụ về bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cũng đã có quyết định thành lập Trung tâm Quốc gia ứng phó sự cố tràn dầu khu vực miền Bắc, miền Trung và miền Nam kịp thời xử lý tình huống tràn dầu.
Bên cạnh hệ thống chung về quản lý môi trường của cả nước theo quy định của pháp luật, còn có một hệ thống chuyên trách về quản lý tài nguyên môi trường biển theo ngành và địa phương.
Như vậy, ở nước ta cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước về môi trường ngày càng hoàn thiện từ trung ương đến địa phương. Thế nhưng chức năng và nhiệm vụ của các tổ chức chưa được phân định rõ ràng, đôi khi còn chồng chéo và chưa phát huy được năng lực thực tiễn.
“Đôi khi có những nhiệm vụ đột xuất cần giải quyết hoặc những tình huống bất thường cần giải pháp ứng phó, nhưng thực tiễn cho thấy, chúng vẫn chưa đủ năng lực để ứng phó và giải quyết kịp thời. Ví dụ, vào năm 2007, khi xảy ra tràn dầu quy mô lớn ở vùng bờ biển Việt Nam, câu hỏi về nguồn gốc dầu tràn đã không được giải đáp kịp thời. Đó là biểu hiện rõ sự hạn chế về cả năng lực quản lý và nghiên cứu khoa học công nghệ của chúng ta”, TS. Trần Đức Thạnh cho biết thêm.
Thời gian tới, một số công việc cần ưu tiên trong công tác hoàn thiện pháp luật về tài nguyên môi trường biển là: Tiếp tục xây dựng, bổ sung và hoàn chỉnh các văn bản pháp quy liên quan đến phát triển bền vững vùng biển và dải ven bờ biển; Xây dựng chiến lược và các chương trình, kế hoạch hành động, các dự án ưu tiên để kiểm soát ô nhiễm, ngăn ngừa suy thoái, phát triển tài nguyên, cảnh báo thiên tai và ngăn ngừa sự cố môi trường trên biển; Phát huy mặt mạnh của nền kinh tế thị trường đối với khai thác tiềm năng và bảo vệ môi trường vùng biển; Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế biển...