Việt Nam đã “nội luật hóa” Công ước Luật biển 1982 như thế nào?
Sau khi ra Tuyên bố ngày 12/11/1982 của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Nghị quyết của Quốc hội ngày 23/6/1994 về việc phê chuẩn Công ước về Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp quốc. Từ đó, pháp luật Việt Nam đã hình thành quá trình nội luật hóa Công ước Luật biển 1982.
Luật biển Việt Nam, năm 2012 |
Bên cạnh Hiến pháp của nước CHXHCN Việt Nam qua các thời kỳ, pháp luật Việt Nam đã đặt nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ, độc lập chủ quyền là một nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt.
Một số luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định ra đời sau Nghị quyết phế chuẩn Công ước Luật biển 1982 gồm:
- Luật Biên giới quốc gia nước CHXHCN Việt Nam số 06/2003/QH11 năm 2003.
- Luật Thủy sản số 17/2003/QH11.
- Luật Hàng hải Việt Nam số 40/2005/QH11.
- Luật Biển Việt Nam được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 21/6/2012.
- Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát Biển Việt Nam số 03/2008/PL-UBTVQH 12.
- Nghị định số 25/2009/NĐ-CP ngày 26/3/2009 của Chính phủ về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo.
- Quyết định số 568/QĐ-TTg ngày 28/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển kinh tế biển, đảo Việt Nam đến năm 2020.
Đặc biệt, Luật Biển Việt Nam năm 2012, là sự nội luật hóa mạnh mẽ nhất Công ước Luật Biển 1982, trên cơ sở bảo vệ quyền lợi chính đáng của dân tộc, của đất nước. Vậy Luật biển Việt Nam ra đời như thế nào? Phạm vi điều chỉnh ra sao?
Theo sách "100 câu hỏi đáp về biển, đảo dành cho tuổi trẻ Việt Nam", ngày 23/6/1994, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa IX đã thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, công tác xây dựng Luật Biển Việt Nam đã được đưa vào Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội khóa X. Trên cơ sở quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, tham khảo các thông lệ quốc tế và thực tiễn của nhiều quốc gia ven biển dựa trên các yêu cầu về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng của nước ta, trải qua 3 nhiệm kỳ Quốc hội khóa X, XI, XII với nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung, tới phiên họp ngày 21/6/2012 trong Kỳ họp thứ 3, Quốc hội Khóa XIII đã chính thức thông qua Luật Biển Việt Nam với số phiếu tán thành là 99,8%.
“Đây là một hoạt động lập pháp quan trọng nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan biển, đảo nước ta. Lần đầu tiên nước ta có một văn bản Luật quy định khá đầy đủ về chế độ pháp lý các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam theo đúng Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, tạo cơ sở pháp lý cho việc khai thác và quản lý các vùng biển, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế. Với Luật Biển Việt Nam, cùng với việc khẳng định chủ trương giải quyết các tranh chấp biển, đảo bằng các biện pháp hòa bình, Nhà nước ta đã chuyển một thông điệp quan trọng tới toàn thế giới: Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, quyết tâm phấn đấu vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới”- nội dung sách viết.
Luật Biển Việt Nam quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo.
Luật Biển Việt Nam bao gồm 7 Chương và 55 Điều.
Chương I: Những quy định chung gồm có 7 Điều quy định về phạm vi điều chỉnh, việc áp dụng pháp luật, giải thích từ ngữ, nguyên tắc quản lý và bảo vệ biển, chính sách quản lý và bảo vệ biển, hợp tác quốc tế về biển, quản lý nhà nước về biển.
Chương II: Vùng biển Việt Nam gồm có 14 Điều quy định về việc xác định đường cơ sở, chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam (nội thủy, lãnh hải) và các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của ta (vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa), đảo, quần đảo và chế độ pháp lý của đảo.
Chương III: Hoạt động trong vùng biển Việt Nam gồm có 20 Điều quy định về nội hàm của việc đi qua không gây hại, nghĩa vụ khi thực hiện quyền này, quy định tuyến hàng hải và phân luồng giao thông.
Chương IV: Phát triển kinh tế biển gồm có 5 Điều, quy định các nguyên tắc phát triển biển, các ngành kinh tế biển ưu tiên phát triển, vấn đề quy hoạch phát triển kinh tế biển, khuyến khích, ưu đãi đầu tư phát triển tinh tế biển trên các đảo và hoạt động trên biển.
Chương V: Tuần tra, kiểm soát trên biển gồm có 3 Điều quy định về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển; nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển.
Chương VI: Xử lý vi phạm gồm có 4 Điều quy định về dẫn giải và địa điểm xử lý vi phạm, biện pháp bảo đảm tố tụng, xử lý vi phạm, biện pháp đối với đối tượng là người nước ngoài... nhằm đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, đúng pháp luật giữa các cơ quan có trách nhiệm xử lý vi phạm Luật Biển Việt Nam.
Chương VII: Điều khoản thi hành: Luật Biển Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 2013. Chính phủ sẽ ban hành những quy định hướng dẫn thi hành các điều khoản được giao ở trong Luật