Vào TPP và hội nhập, cần sửa Luật Chuyển giao công nghệ
Phát biểu khai mạc Hội thảo “Thực thi Luật Chuyển giao công nghệ của Việt Nam” diễn ra chiều nay, 9/11/2015 ở Hà Nội, Bộ trưởng Nguyễn Quân nhận định: “Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006 có hiệu lực từ 1/7/2007, đã qua hơn 9 năm thực thi, đến nay có tác động tích cực đối với hoạt động KHCN trong phạm vi cả nước, tuy nhiên, cũng đã bộc lộ bất cập trong cơ chế chính sách cũng như trong việc thực thi, nhất là trong bối cảnh chúng ta đã hội nhập quốc tế sâu rộng, trở thành thành viên của WTO, và sắp tới, sẽ tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN, ký các hiệp định thương mại tự do với Liên minh Châu Âu, đặc biệt là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP.
![]() |
Bộ trưởng Bộ KHCN Nguyễn Quân phát biểu khai mạc Hội thảo chiều 9/11 tại Hà Nội. Ảnh: B.M |
Rất nhiều vấn đề của chuyển giao công nghệ, kể cả vấn đề chuyển giao công nghệ trong nước, cũng như chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài đòi hỏi chúng ta phải có khung cơ chế chính sách mới cho tương đồng với hệ thống luật pháp quốc tế và phù hợp với những cam kết của chúng ta với quốc tế”.
Bộ trưởng Nguyễn Quân chia sẻ: “Năm 2006, khi xây dựng Luật Chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm về hội nhập quốc tế của chúng ta còn rất hạn hẹp. Khi đó chúng ta chưa phải là thành viên của WTO, mới đi những bước đầu tiên trên con đường hội nhập, bắt đầu tiếp cận với kinh tế thị trường.
![]() |
Toàn cảnh Hội thảo. Ảnh: B.M |
Cho nên nội dung của Luật Chuyển giao công nghệ trước đây chủ yếu mới đề cập đến nhập khẩu công nghệ và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, trong bối cảnh Việt Nam là nước trình độ phát triển rất thấp, chưa có kinh nghiệm hội nhập quốc tế, KHCN chủ yếu dựa vào việc nhập khẩu công nghệ, làm chủ công nghệ nhập khẩu, tiến tới có những công nghệ của riêng mình. Lúc đó, chưa đề cập nhiều đến việc chuyển giao công nghệ trong nước, giữa các viện, trường với doanh nghiệp, giữa các doanh nghiệp với nhau. Thị trường công nghệ của chúng ta rất sơ khai nên những quy định của luật pháp về chuyển giao công nghệ trong nước còn rất mờ nhạt.
Thêm nữa, ở giai đoạn đó, chúng ta còn nghèo, còn kém phát triển, nên chưa nghĩ đến việc công nghệ của Việt Nam cũng phải được chuyển giao ra nước ngoài.
Trong lĩnh vực CNTT-TT, hàng loạt công nghệ hiện đại đã được chuyển giao và ứng dụng thành công như mạng viễn thông số hóa, mạng thế hệ sau (NGN), mạng cáp quang, công nghệ GSM và CDMA. Đặc biệt là công nghệ 3G đã được 4 doanh nghiệp viễn thông bắt đầu đưa vào áp dụng từ năm 2009. Một số công nghệ mới như WiMax, Mobile TV đang được tiếp tục thử nghiệm để đưa vào ứng dụng. Những năm gần đây, Việt Nam đã triển khai thành công một số hoạt động chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực CNTT-TT với 2 cường quốc là Hoa Kỳ và Nhật Bản
Trong thực tế, 10 năm qua, các doanh nghiệp của Việt Nam cũng từng bước lớn mạnh. Chúng ta tạo ra được nhiều công nghệ của Việt Nam, và bắt đầu đầu tư ra nước ngoài. Đến nay đã có hàng trăm dự án đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài với tổng số vốn đầu tư lên tới trên 10 tỷ USD. Bởi vậy, cơ chế chuyển giao công nghệ của chúng ta ra nước ngoài sao cho đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp Việt Nam, của những người làm khoa học của Việt Nam cũng cần phải bổ sung trong Luật Chuyển giao công nghệ”.
Bộ trưởng Nguyễn Quân nhấn mạnh: “Trong bối cảnh hiện nay, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ đã trở thành vấn đề rất cấp bách”.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ đã được Quốc hội chấp nhận đưa vào trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ XIII. Dự kiến Luật này sẽ được trình vào kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIV cuối năm 2016 và có thể được thông qua vào kỳ họp đầu năm 2017.
Hội thảo “Thực thi Luật Chuyển giao công nghệ của Việt Nam” chiều 9/11/2015 được Bộ KHCN và Ủy ban KHCN & Môi trường của Quốc hội phối hợp tổ chức. Đây là bước đi đầu tiên để cùng nhìn lại quá trình thực thi Luật này trong 10 năm qua. Trên cơ sở đó, Ban soạn thảo, Tổ biên tập sẽ tiếp thu ý kiến của các nhà khoa học từ các viện nghiên cứu, trường đại học, ý kiến của các doanh nghiệp (nguồn cầu công nghệ) và ý kiến của một số cơ quan quản lý Nhà nước xung quanh vấn đề chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài vào Việt Nam cũng như chuyển giao công nghệ trong thị trường trong nước.
Theo báo cáo tổng kết thi hành Luật Chuyển giao công nghệ của Bộ KHCN, một trong những điểm đáng chú ý là thời gian qua, tại Việt Nam, hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI chưa như kỳ vọng. Đại đa số công nghệ chuyển giao chỉ đạt trình độ công nghệ ở mức trung bình. Cá biệt có trường hợp chuyển giao công nghệ thanh lý khiến Việt Nam có nguy cơ trở thành bãi rác thải công nghệ. Tính cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường quốc tế còn yếu kém do hầu hết công nghệ sử dụng trong dự án FDI là công nghệ đã và đang được sử dụng phổ biến ở chính quốc.
Một trong những nguyên nhân chính là đối với các công nghệ hạn chế chuyển giao thì các điều kiện ràng buộc chưa tạo thành rào cản; nhiều địa phương chạy theo thành tích, vượt rào để thu hút FDI bằng mọi giá.