Trước sự kiện Gạc Ma, Trung Quốc đã nhòm ngó Trường Sa như thế nào?
Từ cuối năm 1986, giả danh các tàu đánh cá, tàu nghiên cứu, Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động xuống phía Nam, tăng số lần tàu chiến, tàu vận tải hoạt động trinh sát, thăm dò ở khu vực Trường Sa. Đặc biệt là từ ngày 24 đến 30 tháng 12 năm 1986, máy bay và tàu chiến của Trung Quốc tiến hành các hoạt động trinh sát từ đảo Song Tử Tây đến đảo Thuyền Chài, gây căng thẳng trên vùng biển của Việt Nam.
Đầu năm 1987, Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao và tăng cường đưa tàu chiến đi lại gần khu vực đảo Thuyền Chài. Họ đã đưa tàu Hải Dương 4 tiến hành trinh sát phần lớn các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, trong đó có cả những đảo ta đang chốt giữ; tăng cường số lượt tàu qua lại khu vực các đảo An Bang, Thuyền Chài, Trường Sa, Trường Sa Đông, Song Tử Tây, có lúc chỉ cách ta khoảng một hải lý để thị uy.
Trung Quốc sử dụng lực lượng hải quân khảo sát địa chất bất hợp pháp trên vùng biển quần đảo Trường Sa, tìm vị trí xây dựng được một trạm quan trắc hải dương theo yêu cầu của tổ chức khí tượng - hải dương thế giới; đồng thời tăng cường các hoạt động xâm nhập, khai thác trái phép tài nguyên vào sâu vùng biển của ta. Cũng thời kỳ này, Malaixia đưa lực lượng chiếm giữ bất hợp pháp bãi đá Kỳ Vân, Kiệu Ngựa ở phía Nam quần đảo Trường Sa.
Trước tình hình trên, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã chỉ thị cho Quân chủng Hải quân đưa lực lượng ra củng cố, giữ vững các đảo đang chốt giữ, tăng cường thế phòng thủ các đảo theo từng cụm, từng khu vực, bảo đảm khi có chiến sự xảy ra có thể chi viện hỗ trợ kịp thời giữ vững đảo; đưa lực lượng đóng giữ một số bãi đá ngầm trong khu vực quần đảo Trường Sa.
Đầu năm 1987, Quân chủng Hải quân tổ chức lực lượng đóng giữ bãi cạn, đá ngầm Thuyền Chài (3/1987), tiếp đó, tổ chức xây dựng kế hoạch bảo vệ quần đảo Trường Sa 3 năm (1988 - 1990).
Xác định Trung Quốc có âm mưu thôn tính các đảo phía Tây quần đảo Trường Sa và chiếm đóng xen kẽ vào các cụm đảo do lực lượng hải quân của ta đang đóng giữ, nhằm thiết lập tuyến ngăn chặn các hoạt động của ta từ đất liền đến các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, Bộ Tư lệnh Hải quân đã đề ra kế hoạch triển khai lực lượng đóng giữ trên 11 bãi cạn, đá ngầm, cụ thể: Năm 1988, đóng giữ 4 vị trí (Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ); năm 1989, giữ tiếp các bãi Đá Thị, Tốc Tan, Đá Lát, Ga Ven, Đá Đông, Châu Viên, Núi Le.
Đảo Đá Thị (Quần đảo Trường Sa) vẫn vững vàng cho đến ngày nay (Ảnh Hồng Chuyên, chụp tháng 6/2013) |
Ngày 6 tháng 11 năm 1987, Bộ Quốc phòng chính thức phê chuẩn kế hoạch tác chiến trên và ban hành Mệnh lệnh số 1679/ML-QP, giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân: Đưa lực lượng ra giữ các bãi cạn, không chờ xin chỉ thị của cấp trên, trước mắt đưa ngay lực lượng ra đóng giữ Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ
Ngay sau đó, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân ra lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu đối với lực lượng bảo vệ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa; đồng thời chỉ thị cho Lữ đoàn 125, Lữ đoàn 172, Trung đoàn 83 vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu, chuẩn bị lực lượng, phương tiện, sẵn sàng cơ động chiến đấu, ra xây dựng các công trình phòng thủ trên các bãi đá ta mới đóng giữ; điều chuyển một số tàu thuộc các lữ đoàn 146, 125 đưa bộ đội đến tăng cường lực lượng đóng giữ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
Trên cơ sở báo cáo của Bộ Tổng Tham mưu và Quân chủng Hải quân về diễn biến tình hình ở quần đảo Trường Sa, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 06-NQ/TW ngày 30 tháng 11 năm 1987, về đấu tranh bảo vệ chủ quyền 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sau khi có Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quân chủng Hải quân tăng cường lực lượng, xây dựng thế trận phòng thủ trên các đảo và vùng biển phía Nam. Quân chủng tăng cường thêm phương tiện cho vùng 4 Hải quân, bảo vệ vị trí neo đậu cho tàu thuyền tại khu vực giàn khoan. Hàng ngày duy trì 2 tàu bảo vệ khu vực khai thác dầu khí, bảo vệ an toàn cho công tác thăm dò và khai thác dầu khí. Hoạt động tuần tiễu ở khu vực giàn khoan của lực lượng Hải quân lúc cao nhất có 6 tàu của Lữ đoàn 171 và Hải đoàn 129. Một số tàu đánh cá đến hoạt động trái phép ở khu vực thềm lục địa, hoặc tàu lạ xuất hiện bị Hải quân ta ngăn chặn xua đuổi, bảo vệ an toàn cho các hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên trong các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam.
Đầu tháng 1 năm 1988, nhận thấy tình hình khu vực quần đảo Trường Sa có chiều hướng phức tạp, Hải quân ta xác định, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vùng biển và quần đảo Trường Sa là nhiệm vụ quan trọng nhất, khẩn trương nhất và cũng là vinh dự của Quân chủng; Tranh thủ thời gian, triển khai lực lượng đóng giữ trên các đảo, hoàn thành kế hoạch đóng giữ các đảo trong ba năm (1988 - 1990) ngay trong năm 1988…; Đồng thời tăng cường số lần hoạt động tuần tiễu, bảo vệ Vịnh Bắc Bộ, vùng biển Tây Nam.
Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân ra lệnh điều động lực lượng tàu, bộ đội công binh và lực lượng của cơ quan chuyển vào Cam Ranh, sẵn sàng đưa bộ đội ra đóng giữ đảo; chỉ đạo các đơn vị làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ chiến sỹ, thực hiện tốt việc di chuyển cơ quan, chỉ đạo triển khai tăng cường thông tin liên lạc ở Cam Ranh, thành phố Hồ Chí Minh, quần đảo Trường Sa, chú trọng mạng thông tin hiệp đồng quân binh chủng; chỉ đạo bảo đảm hàng hải, thả phao tiêu đánh dấu luồng lạch ở Trường Sa; chỉ đạo công tác vật tư, tài chính, công binh bảo đảm hoàn thành kế hoạch xây dựng công trình, công sự chiến đấu, thiết bị chiến trường ở quần đảo Trường Sa; chỉ đạo tăng cường công tác nắm địch, tăng thêm phương tiện, lực lượng nắm địch, chỉ đạo công tác tuyển quân và huấn luyện chiến đấu.
Tiếp tục các hành động xâm chiếm bất hợp pháp các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, ngày 22 tháng 1 năm 1988, Trung Quốc đưa 1 tàu hộ vệ tên lửa, 1 tàu tuần dương, 1 tàu dầu, 1 tàu đổ bộ và một số tàu chiến khác đến chiếm đóng bất hợp pháp đảo Chữ Thập. Tiếp đó, họ đã đưa một lực lượng lớn gồm 2 tàu hộ vệ tên lửa, 2 khu trục tên lửa, 4 tàu bảo đảm đậu xung quanh đảo, khống chế không cho tàu thuyền nước ta qua lại để bảo vệ đảo Chữ Thập.
Hải quân Trung Quốc còn tổ chức các cụm tuyến hoạt động gồm: Cụm phía sau lấy Hoàng Sa mà Trung Quốc đang chiếm đóng bất hợp pháp từ 1974 làm căn cứ thường xuyên, có tàu hộ vệ pháo, hộ vệ tên lửa, khu trục tên lửa, tuần dương, các tàu ngầm và tàu hộ tống nhằm ngăn cản, uy hiếp lực lượng tàu Hải quân ta hoạt động ở Vịnh Bắc Bộ, gây khó khăn cho ta trong việc triển khai hoạt động bảo vệ vùng đảo phía Nam;
Cụm thứ 2 ngăn chân lực lượng Hải quân ta ở bán đảo Cam Ranh, cù lao Thu và cụm Chữ Thập, âm mưu khống chế ta ở khu vực Trường Sa, nếu có thời cơ phát triển lực lượng xuống khu vực phía Nam.
Trước tình hình trên, ngày 23 tháng 1 năm 1988, Bộ Tư lệnh Hải quân đã điều Tàu 613 thuộc Vùng 4 Hải quân chở lực lượng và vật liệu ra giữ đảo Tiên Nữ. Mặc dù phải qua hai ngày vượt sóng to, gió lớn, nhưng khi ra đến đảo, bộ đội đã nhanh chóng xây dựng công sự, nhà ở vững chắc để đảm bảo sinh hoạt cho cán bộ, chiến sĩ giữ đảo.
Tiếp đó, ngày 27 tháng 1 năm 1988, Bộ Tư lệnh Hải quân quyết định đưa các tàu HQ 611 và HQ 712 chở 1 đại đội công binh và hai khung đảo của Lữ đoàn 146 đến chiếm giữ đảo Chữ Thập. Ngày 29 tháng 1, tàu bị hỏng máy phải dừng lại sửa chữa. Sáng ngày 30 tháng 1, khi cách đảo 5 hải lý, thì phát hiện 4 tàu chiến Trung Quốc, gồm 2 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo ra ngăn cản, có lúc chỉ cách 300m, không cho tiếp cận đảo, tàu phải quay về Trường Sa Đông, không thực hiện được việc đóng giữ đảo Chữ Thập như kế hoạch đề ra.
Ngày 4 tháng 2 năm 1988, Hải quân ta nhận định: Trung Quốc đã chiếm đóng bất hợp pháp trên đảo Chữ Thập, họ có thể mở rộng phạm vi chiếm đóng sang các đảo Châu Viên, Đá Đông, Đá Nam, Tốc Tan và đóng xen kẽ những bãi đá ta đang đóng giữ. Trước mắt, ta chưa đưa quân ra đóng xen kẽ ở đảo Chữ Thập vì họ ngăn chặn ta từ xa. Do đó, ta phải nhanh chóng đưa lực lượng ra đóng giữ Đá Lát, Đá Lớn, Châu Viên.
Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân thành lập Sở chỉ huy tiền phương Quân chủng tại Cam Ranh, do đồng chí Giáp Văn Cương làm Tư lệnh, kiêm Tư lệnh Vùng 4 để chỉ huy các cơ quan, đơn vị kịp thời giải quyết mọi mặt theo yêu cầu đóng giữ, bảo vệ Trường Sa và DK1.
Triển khai nhiệm vụ đưa lực lượng ra đóng giữ đảo, Tàu 611 và Tàu 712 đưa lực lượng công binh và bộ đội của Lữ đoàn 146 đến đảo Đá Lát. Bộ đội phân chia lực lượng thành 3 tổ chiến đấu canh gác, đồng thời tổ chức lực lượng làm nhà cấp ba.Đến ngày 20 tháng 2, lực lượng công binh được sự hỗ trợ của lực lượng đóng giữ đảo hoàn thành nhà và bàn giao cho cho lực lượng bảo vệ đảo.
Ngày 13 tháng 2, Lữ đoàn 125 cho Tàu 505 kéo Tàu LCU 556 cùng bộ phận làm nhà cao chân đóng giữ đảo Đá Lớn. Trong khi ta đang tiến về phía đảo, thì phát hiện tàu khu trục và hai tàu hộ vệ tên lửa của Trung Quốc cũng tiến về phía Đá Lớn. Các tàu này đã có những hành động ngăn cản, uy hiếp tàu của ta. Tàu 505 bình tĩnh khôn khéo đưa Tàu LUC 556 tiếp tục tiến về phía Bắc đảo.
Ngày 20 tháng 2, sau khi quan sát thăm dò luồng, Tàu 556 tiến vào phía vào phía Nam đảo an toàn. Tiếp đó, Tàu Đại Lãnh của Công ty trục vớt cứu hộ Sài Gòn kéo tàu HQ 582 và pông-tông Đ02, xuất phát từ thành phố Hồ Chí Minh, đến ngày 1 tháng 3, vào đến vị trí phía Bắc đảo Đá Lớn. Cán bộ, chiến sĩ trên pông-tông Đ02 và lực lượng trên Tàu LCU đã đến triển khai lực lượng, xây dựng thế trận phòng thủ bảo vệ đảo Đá Lớn.
Tháng 2 năm 1988, Trung Quốc tăng thêm 4 tàu hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo xuống hoạt động ở khu vực quần đảo Trường Sa, gây tình hình hết sức căng thẳng. Ngày 18 tháng 2, Hải quân ta xác định: Ta phải kiên quyết đóng nhanh, đóng đồng thời tất cả các đảo đã có kế hoạch. Nếu cần, có thể dùng mọi loại tàu để ủi bãi, không làm như vậy sẽ không ngăn chặn được Trung Quốc tiếp tục mở rộng phạm vi chiếm đóng thêm.
Trung tuần tháng 2 năm 1988, Quân chủng Hải quân đã điều động Lữ đoàn 125 đưa pông-tông 07 ra giữ Tốc Tan, đồng thời, đưa lực lượng, phương tiện của Lữ đoàn 146 và lực lượng công binh của Trung đoàn 83 ra xây dựng, cắm cờ, canh gác, chốt giữ đảo Đá Đông, một đảo chìm rộng giữ vị trí quan trọng trong quần đảo.
Trong bối cảnh hải quân Trung Quốc có thể khiêu khích ngăn chặn bất cứ lúc nào, song các tàu của ta đã bình tĩnh vượt qua sóng gió đưa bộ đội và vật liệu đến đảo an toàn. Nhờ sự kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng tàu, đảo, công binh, công việc triển khai lực lượng bảo vệ đảo, xây dựng nhà, công sự đã hoàn thành theo đúng kế hoạch, bảo đảm yêu cầu kỹ thuật. Các tàu 605, 604 tiếp tục ở lại làm nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài Đá Đông.
(Còn tiếp)