Thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Hồng
Hội nghị Toàn quốc quán triệt và triển khai Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh phát triển vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 vừa được Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức vào cuối tháng 11/2022.
Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên khẳng định, vùng đồng bằng sông Hồng là địa bàn đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước.
Những năm qua, các địa phương trong vùng đã khai thác, phát huy khá tốt các tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế cả nước nói chung và ngành công nghiệp, thương mại nói riêng. Quy mô kinh tế vùng tăng nhanh (chiếm 1/3 GDP cả nước).
Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành công nghiệp, thương mại trong vùng đồng bằng sông Hồng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Cụ thể: Sản xuất công nghiệp phát triển chưa bền vững, chủ yếu phát triển theo chiều rộng, gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp, thâm dụng lao động và đất đai; Tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao trong công nghiệp chế biến còn ở mức thấp và phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp FDI; Phân bố không gian phát triển công nghiệp chưa hợp lý và thiếu tính kết nối, chưa hình thành được các cụm liên kết ngành...
Một số giải pháp trọng tâm đã được người đứng đầu Bộ Công Thương đề xuất nhằm khắc phục các hạn chế, tiếp tục phát huy hiệu quả các tiềm năng, lợi thế vượt trội của vùng, thúc đẩy các ngành công nghiệp và thương mại, dịch vụ phát triển nhanh và bền vững.
Trước hết, cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thành Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng và quy hoạch các tỉnh, thành phố thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, quán triệt quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị: Đồng bằng sông Hồng là “vùng động lực phát triển hàng đầu để định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước”. Tổ chức không gian phát triển vùng hợp lý, kết nối các hành lang, vành đai kinh tế và các cực tăng trưởng gắn với vai trò đầu tàu, hạt nhân phát triển của vùng Thủ đô Hà Nội nhằm khơi thông các điểm nghẽn về hạ tầng, khắc phục hạn chế về liên kết vùng.
Tiếp tục thực hiện hiệu quả xã hội hóa nguồn lực, đa dạng hóa các hình thức đầu tư để huy động tối đa nguồn nội lực, kết hợp hài hoà với ngoại lực cho đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Nghiên cứu, đề xuất và ban hành các cơ chế, chính sách có tính đột phá, khả thi để đẩy mạnh phát triển công nghiệp vùng theo hướng hiện đại, công nghệ cao, ít phát thải khí nhà kính, có khả năng cạnh tranh và giá trị gia tăng cao, tham gia sâu, toàn diện vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu.Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ tập trung phát triển mạnh các ngành công nghiệp hiện đại, có lợi thế cạnh tranh (như công nghiệp chế biến, chế tạo, điện tử, công nghiệp công nghệ số, sản xuất phần mềm, trí tuệ nhân tạo, sản xuất ô tô, công nghiệp hỗ trợ) và ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao, có tính chất “dẫn đường” như sản xuất chíp, bán dẫn, rô bốt, công nghiệp năng lượng tái tạo, vật liệu mới. Còn vùng Nam đồng bằng sông Hồng khuyến khích phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến nông sản, sản xuất máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và các ngành công nghiệp hỗ trợ, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch gắn với phát triển các khu kinh tế ven biển theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, nhân lực phục vụ phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm, có thế mạnh của vùng.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, phát triển chính phủ điện tử, hướng đến xây dựng chính quyền số. Tập trung rà soát, cắt giảm mạnh mẽ các thủ tục, điều kiện đầu tư, kinh doanh không còn phù hợp.
Anh Duy