Tầm quan trọng để nhận diện một “Việt Nam biển”
Phần lục địa nước ta không có nơi nào cách xa biển quá 500km, nơi hẹp nhất ở Quảng Bình và chỉ gần 50km nên yếu tố biển có thể phát huy ảnh hưởng đến mọi miền đất nước. Dải ven biển nước ta tạo ra nhiều “cửa ngõ” để mở cửa thông thương ra biển và đại dương với thế giới bên ngoài như: TP. Hải Dương, Vũng Tàu, Nghi Sơn, Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Vân Phong, Cam Ranh…
Đánh thức tiềm năng dải ven biển và xây dựng chuỗi đô thị ven biển hiện đại gắn với cảng biển sẽ tạo ra các “cực tăng trưởng” có bán kính ảnh hưởng rất lớn đối với các vùng lãnh thổ sâu trong đất liền, tạo khả năng kết nối với không gian kinh tế biển và kinh tế đảo bên ngoài. Rộng hơn, nhiều khu vực của dải ven biển nước ta có thể kết nối với vùng lãnh thổ tây nam Trung Quốc, Lào, Đông Bắc Thái Lan và Campuchia thông qua phát triển hệ thống cảng biển, đường sắt và đường bộ hiện đại.
Việc nhận diện một “Việt Nam biển” và vị trí quan trọng của nó đối với phát triển đất nước như vậy chính là một cách nhìn mới và đầy đủ về “chân dung kinh tế” của đất nước |
Năng lực nội sinh và nhu cầu nội vùng của dải ven biển nước ta cũng khá lớn: Tập trung các nguồn tài nguyên thiên nhiên, 20/25 hệ sinh thái biển, ven biển quan trọng nhất, tập trung khoảng 50% dân số cả nước (tính cho các tỉnh ven biển) và 30% dân số cả nước (tính cho huyện ven biển); 50% đô thị lớn và trên 300 khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế ven biển lớn đã và đang được đầu tư phát triển mạnh, trong đó có 3 vùng kinh tế trọng điểm quốc gia Bắc, Trung, Nam.
Một dải đất hẹp và bờ biển dài như vậy vừa có lợi thế trong phát triển vừa có giá trị chiến lược về mặt phòng thủ đất nước khi xảy ra chiến tranh. Để phát huy thế mạnh và hạn chế điểm yếu, việc tổ chức lại lãnh thổ ven biển, tập trung vào đa dạng hóa và kết nối các loại hình phát triển theo vùng tự nhiên - sinh thái ven biển khác nhau là một nhiệm vụ mang tầm chiến lược.
Phát triển vũng ven biển nhằm tạo ra động lực lan tỏa hỗ trợ phát triển vùng trung du – miền núi, đồng thời tạo cơ sở cho phát triển một nền kinh tế biển vững chắc và lâu dài.
Điều này tạo ra tiền đề cho việc hoạch định một chiến lược mang tầm cỡ gắn với một nền quốc phòng, an ninh trên biển vững chắc, phù hợp với xu thế phát triển của một quốc gia biển trong bối cảnh tranh chấp sẽ còn nhiều kéo dài ở biển Đông.
Quá trình toàn cầu hóa đang được đẩy mạnh, Đông Á càng bùng nổ phát triển thì vị thế đó của Việt Nam càng được củng cố và nâng cao. Vì vậy, tiến ra biển là xu thế tất yếu của dân tộc ta để tìm kiếm và đảm bảo các nhu cầu về nguyên liệu, năng lượng, thực phẩm cho tương lai.
Đó là một hướng đi đúng, một cách nhìn xa trông rộng và trong bối cảnh hiện nay rất cần một quyết tâm chính trị, tính nhất quán về chủ trương và một kỷ cương về hành động của toàn Đảng,toàn quân và toàn dân của cả dân tộc để biển lợi thế của biển thành lợi ích của đất nước.
Dựa vào lợi thế về biển đảo, các thế hệ người Việt đã liên tục thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển và hai quần đảo ngoài khơi Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam theo quy định của pháp luật quốc gia cũng như công ước biển quốc tế.
Rõ ràng các vấn đề biển của nước ta vừa chứa đựng yếu tố quốc gia vừa chứa đựng yếu tố quốc tế. Cho nên chính sách biển nước ta một mặt phải có tác động điều chỉnh hành vi phát triển của các ngành kinh tế biển tạo ra một trật tự pháp lý ổn định trên biển Việt Nam với sự góp sức của người dân, mặt khác phải có khả năng hội nhập quốc tế, phù hợp với tinh thần của Công pháp quốc tế.
Trong phát triển chúng ta cũng cần chú trọng phát triển nghề biển xa và chuẩn bị từng bước điều kiện để vươn xa ra đại dương.
Trong bối cảnh thế giới tiến ra biển và đại dương đang “lấy đại dương nuôi đất liền” như nói trên thì việc nhận diện một “Việt Nam biển” và vị trí quan trọng của nó đối với phát triển đất nước như vậy chính là một cách nhìn mới và đầy đủ về “chân dung kinh tế” của đất nước”.
Biển chính là không gian sinh tồn của dân tộc Việt Nam và phải trở thành yếu tố trọng yếu, không thể thiếu trong nền kinh tế quốc dân và trong việc lựa chọn con đường đi tới của dân tộc ta.