Nông thôn mới: Cứng hóa 68,7% đường giao thông nông thôn
Theo Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) xây dựng nông thôn mới (NTM) giai đoạn 2010-2020 của Ban Chỉ đạo Các chương trình MTQG giai đoạn 2016 – 2020, sau hơn 9 năm triển khai Chương trình MTQG xây dựng NTM, Chương trình đã đạt được một số kết quả nổi bật trong thực hiện các nội dung trọng tâm.
Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn đã có những thay đổi vượt bậc, hiện đại hóa một bước theo hướng đồng bộ, bộ mặt nông thôn ngày càng khang trang, từng bước đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của người dân, đồng thời, đang dần bắt kịp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội khu vực nông thôn, cụ thể:
Nổi bật nhất là hạ tầng giao thông nông thôn, sau hơn 9 năm, cả nước đã xây dựng và nâng cấp được trên 206.743 km đường giao thông, nâng tỷ lệ đường giao thông nông thôn được cứng hóa lên 68,7%. Có trên 97% số xã có đường giao thông từ trụ sở xã đến UBND huyện được nhựa, cứng hóa; gần 80% số xã đã trải nhựa, bê tông đường ngõ xóm.
Nếu năm 2010 còn 140 xã không có đường giao thông đến trung tâm thì nay chỉ còn 13 xã. Chất lượng đường giao thông ngày càng được nâng cào và khá đồng bộ, góp phần tích cực hình thành các vùng sản xuất lớn và tạo điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư về nông thôn, trong đó có những doanh nghiệp lớn.
![]() |
Làm đường nông thôn mới tại xã Nghĩa Tân, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. |
Hệ thống thủy lợi ngày càng hoàn thiện, đồng bộ góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng cao giá trị sản xuất và thúc đẩy tái cơ cấu ngành nông nghiệp ở các địa phương.
Hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước có áp dụng biện pháp tưới tiên tiến, tiết kiệm nước cho cây trồng cạn. Một số vùng phát triển tưới tiên tiến, tiết kiệm nước với tỷ lệ cao như: Đông Nam Bộ (chiếm 40%), Tây Nguyên (27%), Đồng bằng sông Cửu Long (18%).
Đến nay, 100% số xã và 99,1% số hộ nông thôn đã có điện. Chất lượng điện ở nông thôn ngày càng được nâng cao, ổn định, cơ bản đáp ứng đủ, kịp thời nhu cầu sinh hoạt của người dân và phát triển sản xuất, chế biến, bảo quản sản phẩm; tạo điều kiện thuận lợi cho ứng dụng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, kể cả những huyện vùng cao.
Đặc biệt, các khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn và biên giới, các xã đảo, 11/12 huyện đảo cũng được chú trọng đầu tư cung cấp điện, góp phần giữ vững chủ quyền quốc gia và đảm bảo an ninh trật tự.
Hệ thống trường học các cấp ở nông thôn đã được các địa phương đặc biệt chú trọng. Cả nước có 31.016 trường học các cấp ở nông thôn, tỷ lệ trường có cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đạt chuẩn quốc gia tăng mạnh. Nhiều địa phương đã ưu tiên nguồn lực đầu tư xây dựng trường mới đồng bộ, bổ sung các phòng học và phòng chức năng, tăng cường trang thiết bị dạy học, thư viện, khu rèn luyện thể lực/kỹ năng, nhà vệ sinh, cải thiện cảnh quan sư phạm xanh – sạch – đẹp. Trong đó, nhiều địa phương đã đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục để đầu tư mới hệ thống trường học theo hướng hiện đại, đáp ứng các yêu cầu mới của giáo dục.
Tỷ lệ xã có nhà văn hóa tăng nhanh trong 10 năm qua, nhờ huy động các nguồn lực đầu tư để xây dựng thiết chế văn hóa, thể thao, nhất là sự đóng góp của người dân về ngày công, hiến đất, tiền, trang thiết bị,… Đến nay có trên 79% số xã có nhà văn hóa, trung tâm thể thao xã, trong đó 71% đạt chuẩn. Cả nước cso trên 72.952 thôn có nhà văn hóa, khu thể thao thôn (chiếm khoảng 79,2%), trong đó có 65% đạt chuẩn. Nhiều địa phương đã phát huy khai thác hiệu quả, đa dạng hóa các hoạt động để phục vụ và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần, rèn luyện thân thể của các tầng lớp nhân dân.
Hệ thống cơ sở y tế nông thôn trong những năm qua tiếp tục được quan tâm đầu tư, nâng cấp, hoàn thiện và được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. 100% các xã có trạm y tế (khoảng 11.083 trạm), trong đó khoảng 76% số trạm y tế xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế; khoảng 87,5% trạm y tế xã có bác sỹ đến làm việc; 95% thôn, bản, tổ dân phố có nhân viên y tế hoạt động.