Kiên Giang phấn đấu đến năm 2030 toàn tỉnh có 14.000 lồng nuôi biển
Tỉnh Kiên Giang đặt mục tiêu đến năm 2030 toàn tỉnh có số lượng lồng nuôi biển là 14.000 lồng, trong đó nuôi cá lồng truyền thống là 5.300 lồng, nuôi cá lồng công nghệ cao là 6.600 lồng và nuôi thủy sản là 2.100 lồng.
Theo kế hoạch triển khai thực hiện Đề án phát triển nuôi biển theo hướng bền vững trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đến năm 2030, UBND tỉnh đã đưa ra mục tiêu phát huy tiềm năng, lợi thế nhằm thúc đẩy nghề nuôi biển phát triển nhanh theo hướng công nghiệp, hiện đại mà vẫn đảm bảo môi trường sinh thái gắn với phát triển du lịch và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng biển và hải đảo, góp phần tích cực tái cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh, tạo ra sự cạnh tranh, thúc đẩy nền kinh tế biển, tăng thu nhập cho người dân.
Tỉnh Kiên Giang đã đưa ra mục tiêu, đến năm 2025 toàn tỉnh có số lượng lồng nuôi biển là 7.500 lồng, trong đó chỉ tiêu nuôi cá lồng truyền thống là 4.700 lồng, nuôi cá lồng công nghệ cao là 1.900 lồng, nuôi thủy sản khác là 900 lồng.
Kiên Giang phấn đấu đến năm 2030, toàn tỉnh có 14.000 lồng nuôi biển... |
Diện tích mặt nước nuôi lồng là 7.000ha, riêng nuôi trai ngọc là 100ha, thể tích nuôi lồng là 2.984 nghìn m3, diện tích nuôi nhuyễn thể là 25.500ha, Sản lượng nuôi biển đạt 113.720 tấn, trong đó nuôi lồng bè là 29.870 tấn, nuôi nhuyễn thể là 83.850 tấn; sản lượng ngọc trai đạt 260.000 viên. Giá trị sản xuất có thể đạt tới 7.546 tỷ đồng tăng 5.163 tỷ đồng so với năm 2010, tốc độ tăng trường bình quân giai đoạn 2020-2025 là 24,2%/ năm.
Đến năm 2030 toàn tỉnh có số lượng lồng nuôi biển là 14.000 lồng, trong đó nuôi cá lồng truyền thống là 5.300 lồng, nuôi cá lồng công nghệ cao là 6.600 lồng và nuôi thủy sản là 2.100 lồng. Diện tích mặt nước nuôi lồng là 16.000ha, riêng nuôi ngọc trai là 200ha, thể tích nuôi lồng là 9.310 nghìn m3. Diện tích nuôi nhuyễn thể là 26.900ha. Sản lượng nuôi biển đạt 207.180 tấn, trong đó nuôi lồng bè là 105.720 tấn, nuôi nhuyễn thể là 101.460 tấn , sản lượng ngọc trai đạt 520.000 viên. Giá trị xuất khẩu đạt 19.487 tỷ đồng tăng 15.295 tỷ đồng so với năm 2010, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2026-2030 là 24,3%/năm.
Bên cạnh đó, tỉnh Kiên Giang cũng đã đưa ra một số những tiêu chí như khu nuôi biển phải nằm trong vùng quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản của tỉnh hoặc cơ quan thẩm quyền cho phép. Lồng bè nuôi phải được đặt ở những khu vực không bị ô nhiễm có chất nước phù hợp với đối tượng thủy sản nuôi, nơi đặt lồng bè phải thoáng có dòng chảy thẳng và liên tục, tránh nơi tập trung đông dân cư và tàu thuyền đi lại hay bến cảng.
Diện tích đặt lồng bè nuôi không quá 05% diện tích nước nuôi, độ mặt nước và độ sâu phải thích hợp. Khu nuôi lồng bè và nhuyễn thể tuân thủ các quy định về quy hoạch hệ thống cảng cá và khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá, quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường thủy nội địa, quy hoạch phát triển giao thông vận tải, quản lý Khu bảo tồn biển và quản lý hoạt động khai thác thủy sản trên địa bàn tỉnh.
Kiên Giang cũng đã đưa ra loạt chỉ tiêu cụ thể từng giai đoạn đến cuối năm 2021, năm 2022, 2023, 2024, 2025 và 2030.
Đơn cử, đến cuối năm 2021, xã Hòn Nghệ (huyện Kiên Lương) thực hiện hoàn thành bố trí, sắp xếp nghề nuôi cá lồng bè theo hướng tập trung, liên kết sản xuất tại xã gắn với đánh giá tổng kết kế hoạch 127 của UBND tỉnh về tổ chức, sắp xếp chuỗi liên kết sản xuất cá lồng bè tại xã đến năm 2020. Có khoảng 50% hộ dân nuôi cá lồng bè tại xã đảo được giao khu vực biển và cấp mã số nhận diện cơ sở nuôi theo quy định.
Xã Lại Sơn (huyện Kiên Hải), xã Tiên Hải (TP Hà Tiên) và xã Gành Dầu (TP Phú Quốc) xây dựng, phê duyệt và triển khai kế hoạch bố trí, sắp xếp nghề nuôi biển theo hướng tập trung, liên kết sản xuất bền vững trên địa bàn. Có ít nhất 20% hộ nuôi cá lồng bè, 30% hộ nuôi nhuyễn thể ven biển, ven đảo ở các huyện, thành phố thực hiện đầy đủ các thủ tục đăng ký nuôi biển theo quy định.
Đến năm 2030, cơ sở nuôi biển với đối tượng, hình thức nuôi khác nhau trên địa bàn tỉnh được bố trí, sắp xếp phân vùng nuôi hợp lý, 100% cơ sở nuôi thực hiện đầy đủ các thủ tục đăng ký nuôi biển theo quy định. Ứng dụng công nghệ thông tin quản lý khoa học, chặt chẽ, truy xuất được nguồn gốc sản phẩm, đảm bảo sự phát triển bền vững của nghề nuôi.
Để thực hiện triển khai đồng bộ và có hiệu quả các mục tiêu và các tiêu chí đề ra, Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang chỉ đạo các địa phương, ban ngành liên quan phối hợp triển khai thực hiện.
Thảo Nguyên