Gian nan công tác giảm nghèo cho bà con ở Điện Biên
Xã Núa Ngam có 854 hộ, 3.578 nhân khẩu, với 5 dân tộc sinh sống tại 12 thôn bản gồm: Thái, Lào, Khơ Mú, Mông, và Kinh. Xã có diện tích 4.853 km2, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 1.140 ha chủ yếu là đất nương trồng ngô và sắn, diện tích đất trồng lúa chỉ 79 ha tại các khu vực có khe nước. Do vậy, nguồn thu nhập chính của bà con nơi đây chủ yếu từ trồng sắn và ngô, tuy nhiên, hai loại cây nông nghiệp này chỉ có thể trồng 1 vụ/năm do chất lượng đất và sự khắc nghiệt của thời tiết.
Theo ông Nguyễn Văn Đóa, Bí thư Đảng ủy xã Núa Ngam, toàn xã hiện có 398 hộ nghèo và 98 hộ cận nghèo, chiếm khoảng 62% tổng số hộ. Do không có nguồn thu nhập nào khác từ ngô và sắn, hàng năm, tỷ lệ thoát nghèo chỉ đạt khoảng 3%-4%. Tuy nhiên, số lượng hộ gia đình thoát nghèo sau đó lại tái nghèo cũng không ít, tỷ lệ hộ nghèo của năm 2015 là trên 50%, tương đương với năm 2011. Trong khi đó, tỷ lệ hộ nghèo của năm 2014 chỉ chiếm 26%.
Nguyên nhân khiến tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo tăng, theo ông Nguyễn Văn Đóa là do nguồn lực đất đai hạn chế, dân số ngày một tăng nhanh, trong khi trình độ tiếp cận với khoa học kỹ thuật trong sản xuất của người dân còn bị hạn chế do trình độ dân trí còn thấp. Người dân gặp rất nhiều khó khăn trong việc chuyển đổi nghề.
Trên thực tế, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất ngô cũng đã đem lại kết quả đáng khích lệ. Nếu như năm 2008 thu hoạch từ 1 ha trồng ngô chỉ được 2,5-3 tạ, nhưng đến nay có thể cho thu hoạch khoảng 7 tấn. Tuy nhiên, ông Đóa thừa nhận những thay đổi này vẫn chưa mang tính bền vững, để giảm nghèo bền vững cần phải tạo thêm sinh kế cho người dân bằng việc chuyển đổi nghề.
Ông Nguyễn Văn Đóa, Bí thư Đảng bộ xã Núa Ngam. Ảnh: NT. |
Một trong những hướng chuyển đổi là khuyến khích người dân trồng cây keo, tuy nhiên, sau 7-8 năm cây keo mới cho thu hoạch nhưng 400 ha cây keo trong xã lại bị doanh nghiệp ép giá, khiến người dân không thiết tha đến việc thu hoạch.
“Doanh nghiệp thu mua ép giá nông dân với mức giá chỉ 800 đồng/kg gỗ keo, không đủ chi phí để người dân thu hoạch và vận chuyển. Cũng may, trong xã có nhà máy chế biến ngô nên người dân mới “cầm cự” được đến bây giờ. Toàn bộ ngô sau thu hoạch được vận chuyển thẳng đến nhà máy chế biến. Tuy nhiên, mọi chi phí giống, phân bón đều được người dân vay trả chậm, chỉ cần một vụ mất mùa là họ rơi vào cảnh nợ nần,” ông Nguyễn Văn Đóa cho biết.
Thực tế, đã có những hộ gia đình rơi vào vòng xoáy nợ nần khiến cho chính bản thân họ cũng không biết đến khi nào mới thoát ra. Gia đình bà Trần Thanh Huyền ở đội 1, xã Núa Ngam có 1 ha đất nương trồng sắn, nhưng bà Huyền cho biết, do đất đai cằn cỗi nên mỗi năm chỉ cho thu hoạch 10 triệu đồng, do vậy gia đình bà thường xuyên không đủ ăn. Chồng mất sớm, để nuôi hai đứa con ăn học, bà Huyền phải đi làm thuê đủ mọi việc. Với mức thu nhập như vậy, bà Huyền cho biết không biết đến khi nào mới có thể trả hết khoản nợ 30 triệu đồng gia đình bà đang nợ ngân hàng.
Ngôi nhà của gia đình bà Trần Thanh Huyền, đội 1, xã Núa Ngam. Ảnh: NT |
Thực trạng nghèo đói thậm chí đã khiến người dân phải tìm đến cái chết để tự giải thoát mình khỏi cuộc sống bí bách, như trường hợp của gia đình bà Vũ Thị Mận ở đội 2, xã Núa Ngam. Gia đình bà quê gốc Thái Bình lên Điện Biên khai hoang, với chỉ 800 m2 ruộng, thu nhập của cả gia đình không đủ để nuôi 3 người con ăn học. Bản thân bà Mậu dù mang bệnh tật trong người nhưng bà vẫn phải đi làm thuê để kiếm sống. Đau lòng hơn khi năm 2013, chồng bà đã tìm đến cái chết do cảm thấy cuộc sống không có lối thoát.
Trường hợp của gia đình ông Vàng Chứ Só, bà Giàng Thị Sủ tại bản Na Côm, do ông Só mắc nghiện ma túy từ năm 2005 nên gia đình ông bà thường xuyên trong tình trạng thiếu ăn. 5 người con của ông bà có người phải bỏ học từ năm 13 tuổi, có người phải đi lấy chồng từ khi 17 tuổi.
Ông Nguyễn Văn Đóa cho biết, hiện nay tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo trong xã chiếm đến 62%. Tuy nhiên nhận thức của người dân trong việc xóa đói giảm nghèo cũng đã thay đổi rõ rệt trong khoảng 5 năm trở lại đây. Nếu như trước kia, người dân, nhất là người dân tộc thiểu số dù muốn thoát nghèo nhưng “lười phát triển” nên nghèo lại hoàn nghèo. Nếu như trước kia, đàn ông trong xã thường xuyên bỏ bê lao động để sa đà vào rượu chè, ăn nhậu, nhưng đến nay tình trạng này gần như đã chấm dứt.