96% diện tích san hô đang trong trạng thái bị đe doạ
Tại Việt Nam, nhiều khu vực rạn san hô đã bị suy giảm chất lượng hoặc biến mất bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Ngoài tác động từ con người, biến đổi khí hậu cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng góp phần gây nên hiện tượng san hô chết hàng loạt hoặc biến đổi chất lượng trong thời gian qua tại các vùng ven biển Việt Nam.
“Hiện tượng El-Nino kéo dài từ năm 1997 đến năm 1998 đã làm xuất hiện hiện tượng san hô chết trắng ở vùng biển Cát Bà. Nguyên nhân được giải thích có thể là do cả sự tăng cao nhiệt độ, đục hoá hoặc ngọt hoá nguồn nước và ô nhiễm môi trường”, PGS.TS. Đỗ Công Thung, Chủ tịch Hội đồng khoa học, Viện Tài nguyên & Môi trường biển dẫn chứng.
Hệ sinh thái rạn san hô có cấu trúc phức tạp, rất nhạy cảm với các đe doạ cả từ các hoạt động của con người cũng như tự nhiên. Khi chịu các tác động này, các rạn san hô sẽ bị suy giảm chất lượng hoặc bị phá huỷ, kéo theo đó là nguồn lợi cá và các sinh vật khác cũng bị mất.
Tại Việt Nam, theo đánh giá của chuyên gia môi trường biển, trong vòng 15 năm trở lại đây, khoảng 15 - 20% diện tích các rạn san hô đã bị mất đi do các tác động của tự nhiên và của cả con người, tập trung chủ yếu ở những vùng có dân cư sinh sống tập trung như Vịnh Hạ Long – Cát Bà, các tỉnh ven biển miền Trung từ Đà Nẵng tới Bình Thuận, và một số đảo có người thuộc quần đảo Trường Sa.
![]() |
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet. |
Theo ông Phan Hồng Dũng, một chuyên gia về nghiên cứu bảo tồn biển đã từng cảnh báo rằng diện tích rạn san hô còn tốt tại Việt Nam hiện chỉ còn khoảng 1%. Còn lại khoảng 96% đang trong trạng thái bị đe doạ.
Sự biến đổi diện tích và những tổn thương của rạn san hô đã gây ra những thiệt hại đáng kể cho các ngành thuỷ sản và du lịch cũng như đời sống của cộng đồng dân cư ven biển và dân cư nghề cá, làm giảm đa dạng sinh thái và sinh học của khu vực ven biển cũng như chất lượng môi trường biển, làm mất đi nguồn lợi sống của các cộng đồng dân cư ven biển và cộng đồng dân cư nghề cá.
Đơn cử như năm 1998, sản lượng bào ngư (một loạig thuỷ sản sống nhờ các loại tảo bám vào rạn đá và rạn san hô) của Việt Nam là khoảng 70 - 130 tấn/năm, đến những năm 2004 đã giảm xuống còn khoảng 20 - 50 tấn/năm; tu hài ở vùng Cát Bà trước đây có sản lượng khoảng 60 tấn/năm, nay chỉ còn 2 - 5 tấn/năm; rùa biển ở vùng Trung bộ giảm từ 2.000 con/năm (1985 - 1990) xuống còn 1.000 con/năm (năm 1992) và nay chỉ còn khoảng 300 - 500 con.
Các nghề khai thác hải sản đi kèm theo với hệ sinh thái rạn san hô cũng bị suy giảm, ví dụ như nghề khai thác tu hài, vẹm xanh ở các bãi triều cát xốp, nhẹ quanh các đảo vùng triều của Quảng Ninh và Hải Phòng. Nghề cá quanh rạn san hô của khu vực Bãi Tiên (Nha Trang) cũng thể hiện xu hướng giảm, đặc biệt là các nghề thu lượm giống cá con, giống tôm, khai thác vẹm xanh khi rạn san hô của khu vực này bị suy giảm độ che phủ xuống khoảng 30% trong giai đoạn 1984-1988, số lượng các loài của san hô cũng giảm từ 60 loài xuống còn 30 loài, chưa kể các loài hải sản sống kèm rạn san hô cũng bị suy giảm hoặc mất đi.
Sự suy giảm diện tích và chất lượng của các rạn san hô và thảm cỏ biển cũng góp phần vào làm suy giảm nguồn lợi thuỷ sản tại các vùng biển của Việt Nam. Các nghiên cứu về nguồn lợi cá biển cho thấy xu thế giảm mạnh từ năm 1984 đến nay. Nghiên cứu đã cho thấy trữ lượng cá đáy ở biển Việt Nam những năm 1984 khoảng 1,84 triệu tấn, nhưng chỉ trong vòng 10 năm đã chỉ còn lại khoảng 1,03 – 1,2 triệu tấn, nói cách khác, trữ lượng cá đáy ở biển Việt Nam đã giảm tới trên 30%.
Chính vì vậy mà năng suất đánh bắt đã giảm liên tục, giảm nhiều nhất ở Vũng Tàu, Côn Đảo (là những nơi giàu đa dạng sinh học và nguồn lợi thuỷ sản như rạn san hô, thảm cỏ biển và các sinh vật sống kèm). Các ngư trường quan trọng ở các khu vực Đông Nam Bộ, Cù Lao Thu cũng thể hiện xu hướng tương tự.
Một số nguồn lợi động vật đáy khác như Vọp tím (Asaphis dichotoma) và ốc hương (Neritidae) cũng thể hiện xu hướng suy giảm. Nghiên cứu cho thấy chỉ trong vòng 4 năm, mật độ của các loại này giảm khoảng 17 – 43,3% và sinh lượng giảm từ 15,5 – 45,8%.