Vốn đầu tư ra nước ngoài: Kiểm soát kỹ để chống rửa tiền!
![]() |
Ảnh minh họa |
Tuy nhiên, điều đáng nói là hiệu quả thu được từ dòng vốn này vẫn chưa được kiểm soát triệt để khiến nhiều ý kiến lo ngại nguồn vốn sẽ bị lợi dụng để dòng tiền bất hợp pháp “chảy” ra nước ngoài.
Cùng với xu hướng dịch chuyển luồng tiền đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam thì cũng có một sự chuyển dịch luồng tiền khác chảy từ Việt Nam sang các quốc gia khác. Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), cần có sự kiểm soát dòng vốn này để hoạt động đầu tư ra nước ngoài đạt hiệu quả cao.
Thống kê mới gần nhất của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong 10 năm qua, đã có 575 dự án của các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra 55 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 23,7 tỷ USD, trong đó phần vốn của nhà đầu tư Việt Nam đã vượt 10 tỷ USD.
Điều đáng nói là, bên cạnh những dự án đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt đạt được hiệu quả thì nhiều dự án vẫn chưa được đánh giá đúng thực chất. Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, trong 2 tháng đầu năm 2011, đã có 16 dự án thuộc 9 lĩnh vực đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam đăng ký đầu tư ra nước ngoài, với tổng số vốn đăng ký đạt trên 1,264 tỷ USD, chỉ thấp hơn khoảng 300 triệu USD so với lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam cùng kỳ.
Đến năm 2014, đã có 930 dự án đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt với tổng vốn đầu tư đăng ký là 14,85 tỷ USD, điều chỉnh tăng vốn cho 92 dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm là 4,93 tỷ USD. Và tổng vốn đầu tư đăng ký (cả cấp mới và tăng thêm) là 19,78 tỷ USD.
Và theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, 9 tháng đầu năm 2015, Việt Nam đã đầu tư 356,3 triệu USD ra nước ngoài. Riêng trong quý 3/2015, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài cho 40 dự án đầu tư sang 15 quốc gia và vùng lãnh thổ, với 17 lượt điều chỉnh vốn, tổng vốn đầu tư là 200,9 triệu USD.
Theo đánh giá của Cục Đầu tư nước ngoài, việc chấp hành chế độ báo cáo của các doanh nghiệp theo Nghị định 78/2006/NĐ-CP về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chưa được thực hiện nghiêm túc. Thông tin về doanh nghiệp còn thiếu, hơn nữa cơ chế giám sát riêng về các hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, kiểm soát chi phí quản lý doanh nghiệp cả dự án đầu tư tại nước ngoài đối với các dự án có sử dụng vốn có nguồn gốc vốn nhà nước càng khiến việc đánh giá hiệu quả vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước tại nước ngoài trở nên rất khó khăn.
Các chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế cho rằng, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Việt Nam mở cửa đón luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thì Việt Nam cũng phải mở cửa cho việc đầu tư ra nước ngoài đặc biệt trong quá trình tái cấu trúc như hiện nay. Đây là xu hướng tất yếu và phù hợp với quốc tế, doanh nghiệp có quyền xây dựng những kế hoạch mang tính toàn cầu, phù hợp với mục tiêu đặt ra. Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần có sự kiểm soát chặt chẽ đối với dòng vốn đầu tư ra nước ngoài bởi bên cạnh những nguồn vốn đầu tư hiệu qua thì cũng không tránh được những khoản đầu tư sai luật, hoặc lợi dụng để chuyển tiền bất hợp pháp.
“Không tránh được những trường hợp lập dự án ảo để chuyển ngoại tệ ra nước ngoài một cách hợp pháp cho nhiều mục đích khác nhau nhằm mục đích lẩn tránh thuế, rửa tiền hoặc không phù hợp với định hướng”, một chuyên gia cho hay.
Do vậy, nhiều ý kiến cho rằng, cần có cơ chế kiểm soát dòng vốn đầu tư ra nước ngoài để ngăn chặn những hoạt động bất hợp pháp, trong đó không trừ ngoại lệ trường hợp chuyển “tiền bẩn” ra nước ngoài để tẩy rửa.