Thềm lục địa là gì?
Nhà giàn DK1 nằm trên thềm lục địa Việt Nam, tuân thủ Công ước Luật Biển 1982 |
TS Trần Công Trục trả lời: Hiện nay, khái niệm Thềm lục địa đã trở nên quen thuộc với mọi người. Tuy nhiên không phải mọi vấn đề liên quan đến khái niệm này đã được sáng tỏ. Thềm lục địa là gì? Phạm vi Thềm lục địa được xác định như thế nào? Thềm lục địa có phải là bộ phận lãnh thổ quốc gia ven biển không?...
Khái niệm Thềm lục địa xuất hiện trong khoa học pháp lý quốc tế là kết quả của thành tựu khoa học kỹ thuật biển từ hơn nửa thế kỷ đến nay. Kết quả cho phép con người có khả năng khám phá được bí mật của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Chính vì vậy đã thôi thúc nhân loại tìm mọi cách làm chủ và khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú ở đó để phục vụ cho đời sống và phát triển trong hoàn cảnh khó khăn do bùng nổ dân số và tài nguyên trên đất liền bị khai thác cạn kiệt.
Năm 1942, lần đầu tiên trong lịch sử, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển trong vịnh Pariat nằm ngoài giới hạn lãnh hải mà trước đó luôn được coi là bộ phận của biển cả (biển quốc tế, biển công), đã được hai nước Anh và Vênêxuêla phân chia cùng với sự thừa nhận các quyền thuộc chủ quyền của mỗi quốc gia đối với vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển tương ứng.
Năm 1945, Tuyên bố của Tổng thống Mỹ Harry Truman về “Chính sách của Hợp chủng quốc Hoa kỳ đối với tài nguyên thiên nhiên của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển”. Tuyên bố này đã thừa nhận Thềm lục địa là sự mở rộng lãnh thổ đất liền của quốc gia ven biển nên thuộc quyền của quốc gia đó... Bắt đầu từ thời điểm này học thuyết về thềm lục địa bắt đầu phát triển và đi vào cuộc sống của cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên đến năm 1958, người ta mới thành công trong việc pháp điển hóa khái niệm Thềm lục địa trong Luật Biển quốc tế bằng việc thông qua Công ước Giơnevơ về Thềm lục địa cùng với 2 Công ước khác.
Công ước Thềm lục địa năm 1958 đã định nghĩa Thềm lục địa pháp lý như sau: “…thuật ngữ “Thềm lục địa” được sử dụng để chỉ (a) đáy và lòng đất dưới đáy của khu vực ngầm dưới biển nhưng nằm ngoài lãnh hải và ra đến độ sâu 200m nước; hoặc vượt ra ngoài giới hạn đó ra đến độ sâu cho phép khai thác được tài nguyên thiên nhiên của các khu vực ngầm dưới biển đó;(b) để chỉ đáy và lòng đất dưới đáy biển của khu vực ngầm dưới biển tương tự tiếp giáp với bờ của đảo”(Điều 1).
Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 đã định nghĩa Thềm lục địa pháp lý như sau: “Thềm lục địa của quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn” (Điều 76).
Như vậy, Thềm lục địa pháp lý theo định nghĩa này bao gồm toàn bộ Rìa lục địa (Thềm lục địa tự nhiên), Dốc lục địa và Bờ ngoài của Rìa lục địa. Ở nơi nào Rìa lục địa không ra đến 200 hải lý thì Thềm lục địa pháp lý được mở rộng ra đến 200 hải lý. Ở nơi nào Rìa lục địa vượt quá 200 hải lý thì ranh giới ngoài của Thềm lục địa được xác định bằng cách nối các điểm ở nơi mà bề dày trầm tích ít nhất cũng bằng 1% khoảng cách từ các điểm đó đến chân dốc lục địa, hoặc nối các điểm cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý. Tuy nhiên, dù được xác định như trên, giới hạn tối đa của Thềm lục địa cũng không được vượt quá 350 hải lý hay không được cách đường đẳng sâu 2.500m quá 100 hải lý. Để xác định ranh giới ngoài của Thềm lục địa, Công ước Luật Biển 1982 đã kết hợp 3 yếu tố:
- Khoảng cách: 200; 350; 60;100 hải lý;
- Địa chất: sự kéo dài tự nhiên của lục địa, rìa lục địa, bề dày trầm tích, chân dốc lục địa.
- Độ sâu: đường đẳng sâu 2.500m.
Đối với các đảo xa bờ của quốc gia ven biển nếu thích hợp cho con người sinh sống và có đời sống kinh tế riêng thì mới có vùng Thềm lục địa riêng của các đảo đó.
Về chế độ pháp lý, căn cứ vào điều 77, điều 78, điều 79, Công ước Luật biển 1982, chế độ pháp lý của thềm lục địa được quy định khá chi tiết.
2. Trong điều kiện thi hành các biện pháp hợp lý nhằm thăm dò thềm lục địa, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa và ngăn chặn, hạn chế
Tại điều 80 và điều 60 Công ước Luật biển 1982 đã quy định đối vấn đề xây dựng các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền về kinh tế, thềm lục địa,
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, thềm lục địa quốc gia ven biển có đặc quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng:
a) Các đảo nhân tạo;
b) Các thiết bị và công trình dùng vào các mục đích được trù định ở Điều 56 hoặc các mục đích kinh tế khác;
c) Các thiết bị và công trình có thể gây trở ngại cho việc thực hiện các quyền của quốc gia ven biển trong vùng.
2. Quốc gia ven biển có quyền tài phán đặc biệt đối với các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trình đó, kể cả về mặt các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế, an ninh và nhập cư.
3. Việc xây dựng các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình đó phải được thông báo theo đúng thủ tục, và việc duy trì các phương tiện thường trực để báo hiệu sự có mặt của các đảo, thiết bị và công trình nói trên cần được bảo đảm.
Các thiết bị hay công trình đã bỏ hoặc không dùng đến nữa cần được tháo dỡ để đảm bảo an toàn hàng hải, có tính đến những quy phạm quốc tế đã được chấp nhận chung do tổ chức quốc tế có thẩm quyền đặt ra về mặt đó. Khi tháo dỡ phải tính đến việc đánh bắt hải sản, bảo vệ môi trường biển, các quyền và các nghĩa vụ của quốc gia khác. Cần thông báo thích đáng về vị trí, kích thước và độ sâu của những phần còn lại của một thiết bị hoặc công trình chưa được tháo dỡ hoàn toàn.
4. Quốc gia ven biển, nếu cần, có thể lập ra xung quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị hoặc công trình đó những khu vực an toàn với kích thước hợp lý; trong các khu vực đó, quốc gia ven biển có thể áp dụng các biện pháp thích hợp để bảo đảm an toàn hàng hải, cũng như an toàn của các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình đó.
5. Quốc gia ven biển ấn định chiều rộng của những khu vực an toàn có tính đến các quy phạm quốc tế có thể áp dụng được. Các khu vực an toàn này được xác định sao cho đáp ứng một cách hợp lý với tính chất và chức năng của các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trinh, và không thể mở rộng ra một khoảng cách quá 500m xung quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trình, tính từ mỗi điểm của mép ngoài cùng của các đảo nhân tạo, thiết bị và các công trình dó, trừ ngoại lệ do các vi phạm của quốc tế đã được thừa nhận chung cho phép hoặc tổ chức quốc tế có thẩm quyền kiến nghị. Phạm vi của khu vực an toàn được thông báo theo đúng thủ tục.
6. Tất cả các tàu thuyền phải tôn trọng các khu vực an toàn đó và tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế được chấp nhận chung liên quan đến hàng hải trong khu vực của các đảo nhân tạo, các thiết bị, các công trình và các khu vực an toàn.
7. Không được xây dựng những đảo nhân tạo, thiết bị hoặc công trình, không được thiết lập các khu vực an toàn xung quanh các đảo, thiết bị, công trình đó khi việc đó có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế.
8. Các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình không được hưởng quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự có mặt của chúng không có tác động gì đối với việc hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế hoặc thềm lục địa.