Sự thực về con số vênh 5 tỷ USD xuất khẩu khoáng sản sang Trung Quốc
Tại hội thảo “Quản lý đầu tư trong khai thác khoáng sản, các bất cập và khuyến nghị” diễn ra mới đây, chuyên gia kinh tế, TS. Lê Đăng Doanh cho rằng, tình trạng xuất khẩu lậu khoáng sản sang Trung Quốc vẫn rất nghiêm trọng. Theo số liệu thống kê từ Trung Quốc cho thấy, xuất khẩu khoáng sản của Việt Nam sang Trung Quốc là 5 tỷ USD.
Theo số liệu của UNCOMTRADE thì tổng trị giá nhập khẩu các mặt hàng than, quặng và khoáng sản có xuất xứ từ Việt Nam vào Trung Quốc chỉ đạt 253,7 triệu USD năm 2015 và 781,2 triệu USD năm 2014. |
TS. Lê Đăng Doanh đặt câu hỏi: “Tại sao nước ta xuất khẩu khoáng sản kim ngạch đạt đến 5 tỷ USD mà phía Hải quan Việt Nam không biết, thống kê cũng không công bố?”. Cũng theo TS. Lê Đăng Doanh, phía Trung Quốc cho biết, phần lớn trong 5 tỷ USD nói trên là khoáng sản gồm than và quặng.
Trước thông tin này, phía Tổng cục Hải quan thừa nhận rằng, việc chênh lệnh số liệu thống kê hàng hóa song phương giữa các nước theo các nguồn số liệu thống kê khác nhau là phổ biến và không thể tránh khỏi.
Theo Tổng cục Hải quan, trên cơ sở thống kê của Hải quan Việt Nam và nguồn số liệu từ “Cơ sở dữ liệu thương mại của Cơ quan Thống kê Liên Hợp quốc (UNCOMTRADE)” (số liệu của Trung Quốc do Hải quan Trung Quốc báo cáo) cho thấy có sự chênh lệch trong thống kê xuất khẩu hàng khoáng sản Việt Nam xuất khẩu sang Trung quốc của Hải quan Việt Nam với số liệu thống kê nhập khẩu của Trung Quốc.
Tuy nhiên, mức chênh lệch lần lượt là 133,4 triệu USD năm 2015 và 386,3 triệu USD năm 2014. Như vậy, theo số liệu của UNCOMTRADE thì tổng trị giá nhập khẩu các mặt hàng than, quặng và khoáng sản có xuất xứ từ Việt Nam vào Trung Quốc chỉ đạt 253,7 triệu USD năm 2015 và 781,2 triệu USD năm 2014.
Theo lý giải của Tổng cục Hải quan, có 2 nguyên nhân chính dẫn đến việc chênh lệch số liệu, đó là do phương pháp thống kê nước đối tác giữa xuất khẩu và nhập khẩu, hơn nữa nó còn phụ thuộc vào phạm vi hàng hóa đưa vào thống kê, cũng như cách xác định trị giá thống kê khác nhau giữa hàng hoá xuất khẩu (giá FOB) và hàng hoá nhập khẩu (giá CIF).
Nguyên nhân thứ 2 dẫn đến việc chênh lệch số liệu đó là hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại từ cả hai phía Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt là ở các mặt hàng là quặng sắt, quặng titan, than đá… ở các tỉnh biên giới.
Về phía Tổng cục Hải quan, cứ định kỳ 15 ngày và hàng tháng đều công bố công khai số liệu thống kê hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo Lịch công bố thông tin đã được Tổng cục Hải quan phê duyệt và thông báo trên Cổng Thông tin điện tử của Tổng cục Hải quan. Trong đó, đều có thống kê số liệu xuất khẩu mặt hàng than đá, quặng và khoáng sản khác.