Quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng Đặc quyền kinh tế?
TS Trần Công Trục trả lời: Trong vùng Đặc quyền về kinh tế, các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền trong việc thăm dò và khai thác, bảo tồn, quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về các hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió; có các quyền tài phán theo đúng những quy định của Công ước về việc:
- Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình;
- Nghiên cứu khoa học biển;
- Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; và các quyền và nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
Trong vùng Đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo Công ước, quốc gia ven biển phải tính đến các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác và hành động phù hợp với Công ước.
Các quyền và nghĩa vụ có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển được thực thi theo đúng nội dung quy định đối với Thềm lục địa.
Công ước Luật Biển của LHQ đã khẳng định một nguyên tắc pháp lý rất quan trọng (do các quốc gia đang phát triển ven biển đề xuất) là các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên trong vùng Đặc quyền kinh tế của mình. Đây là một thay đổi mới cực kỳ quan trọng trong Luật Biển quốc tế. Có thể nói, về nguyên tắc nó cho phép quốc gia ven biển có quyền sở hữu mọi tài nguyên, sinh vật cũng như không sinh vật, trong vùng Đặc quyền về kinh tế; có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tài nguyên ở đó. Mọi hoạt động thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên ở đó đều thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển. Các quốc gia khác muốn tiến hành các hoạt động như vậy hoặc các hoạt động gây ảnh hưởng đến các quyền của quốc gia ven biển thì đều phải được sự chấp thuận của quốc gia ven biển. Một điểm quan trọng khác nữa đã được quy định trong Công ước là mọi hoạt động nhằm mục đích kinh tế như việc sản xuất năng lượng từ nước, gió, hải lưu, đều đặt dưới quyền chủ quyền của quốc gia ven biển.
Ngoài quyền chủ quyền, quốc gia ven biển còn có quyền tài phán đối với việc lắp đặt và sử dụng các đảo, các thiết bị và công trình nhân tạo trong vùng Đặc quyền kinh tế để phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học biển cũng như việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Điều này có nghĩa là quốc gia ven biển có quyền xây dựng, cho phép, quy định việc xây dựng, khai thác, sử dụng các công trình nhân tạo nói trên và có quyền lập ra vùng an toàn không mở rộng quá 500m xung quanh các công trình đó. Quốc gia ven biển có thẩm quyền ban hành các quy định, quy phạm, tiến hành giám sát, xét xử theo luật của nước mình đối với mọi công dân, tổ chức (kể cả người nước ngoài và tổ chức quốc tế) đang hoạt động trong vùng Đặc quyền kinh tế. Công ước cũng quy định việc xây dựng và sử dụng các công trình nhân tạo cần phải tuân thủ quy định về an toàn hàng hải và không làm ảnh hưởng đến con đường hàng hải quốc tế huyết mạch.
Để đảm bảo việc thực thi các quyền chủ quyền và quyền tài phán nói trên, Công ước quy định cho phép các quốc gia ven biển thi hành quyền khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp (Điều 73).
Tàu thuyền đánh cá nước ngoài khi được phép đánh bắt hải sản trong vùng Đặc quyền kinh tế phải tuân thủ các biện pháp bảo tồn tài nguyên sinh vật, các quy định, điều kiện về cấp phép, chủng loại, khối lượng đánh bắt, mùa vụ, khu vực, tuổi và kích cỡ tài nguyên sinh vật, phương pháp, phương tiện đánh bắt… Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của nghề cá và tránh lạm dụng, Công ước quy định nếu có bảo lãnh thì quốc gia ven biển cần phải thả tự do ngay cho thủy thủ và ngư dân vi phạm, đồng thời yêu cầu không được áp dụng hình phạt tống giam hay nhục hình đối với người vi phạm.
Về quyền tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm, Công ước quy định rằng khi thực hiện quyền tự do này, các quốc gia khác không được làm tổn hại đến những hoạt động khai thác, sử dụng biển hợp pháp của quốc gia ven biển và các quốc gia liên quan khác (Điều 79).
Một nét đặc biệt nữa là Công ước còn quy định về quyền của một nhóm nước đặc biệt trong cùng một phần khu vực hoặc khu vực của quốc gia ven biển: Đó là nhóm các quốc gia không có biển và các quốc gia bất lợi về địa lý.
Điều 16, Luật Biển Việt Nam, đã quy định chế độ pháp lý của vùng Đặc quyền kinh tế của Việt Nam:
1. Trong vùng Đặc quyền kinh tế, Nhà nước thực hiện:
a) Quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; về các hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế;
b) Quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển; nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và nghĩa vụ khác phù hợp với pháp luật quốc tế.
2. Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng Đặc quyền kinh tế cuả Việt Nam theo quy định của Luật này và Điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam.
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
3. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị và công trình trong vùng Đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở các Điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, hợp đồng được ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan.
4. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển quy định tại Điều này được thực hiện theo quy định tại Điều 17 và Điều 18 của Luật này.