Phòng, chống rửa tiền: Khó đánh giá khách hàng có rủi ro cao!
Đây là một trong những khó khăn lớn trong công tác phòng, chống rửa tiền khi phải đánh giá tăng cường đối với khách hàng có rủi ro cao.
Theo Thông tư 31/2014/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 35/2014/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền đã được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành ngày vào cuối năm 2014 quy định: Đối với khách hàng cá nhân có rủi ro cao, yêu cầu các tổ chức tài chính thu thập, bổ sung thông tin về mức thu nhập trung bình hàng tháng trong vòng ít nhất 3 tháng gần nhất của khách hàng. Đồng thời, bổ sung thêm thông tin về tên, địa chỉ, số điện thoại liên lạc của cơ quan, tổ chức hoặc chủ cơ sở nơi làm việc hoặc có thu nhập chính của khách hàng.
Đối với khách hàng là tổ chức, Thông tư yêu cầu thu thập bổ sung thông tin về tổng doanh thu trong 2 năm gần nhất; Tên, địa chỉ, người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền của chi nhánh, công ty con, văn phòng đại diện (nếu khách hàng là công ty mẹ).
Bên cạnh đó, phải giám sát các giao dịch của khách hàng để đảm bảo giao dịch của khách hàng phù hợp với bản chất, mục đích thiết lập mối quan hệ và hoạt động của khách hàng; kịp thời phát hiện các giao dịch bất thường và xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ khi có đủ cơ sở hợp lý theo quy định của pháp luật. Đồng thời, cập nhật thông tin định kỳ ít nhất 1 năm 1 lần hoặc khi đối tượng báo cáo (tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan) biết thông tin về khách hàng đã có sự thay đổi.
![]() |
Ảnh: minh họa |
Tuy nhiên, tại hội nghị về Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF) 2015 vừa được tổ chức mới đây tại Hà Nội, bàn về công tác phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng, Nhóm công tác ngân hàng đã cho rằng, sẽ khó thực hiện việc thu thập thông tin về địa chỉ thường trú của cá nhân, người đại diện của công ty mẹ, công ty con, văn phòng đại diện của khách hàng nước ngoài, và thông tin về vá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hưởng lợi thụ hưởng (số CMT, hộ chiếu, mã số thuế…).
“Trên thực tế, sẽ rất khó để có được những thông tin trên về khách hàng nước ngoài và khách hàng là người không cư trú do việc xác minh bổ sung thông tin nhận viết chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài đó có quy định về bảo mật thông tin khiến cho thông tin cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài không thể chia sẻ với ngân hàng tại Việt Nam hoặc thậm chí chi nhánh trong cùng một tập đoàn tại quốc gia sở tại đó cũng không thể thu thập theo quy định pháp luật”, đại diện của Nhóm công tác ngân hàng cho hay.
Một điểm đáng lưu ý nữa là, việc gặp mặt khách hàng khi thiết lập quan hệ lần đầu là yêu cầu không thực tế nếu khách hàng là người không cư trú. Bởi theo quy định tại Điều 14.3 tiết b của Thông tư 23 về mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thì, đối với tài khoản thanh toán của tổ chức, ngân hàng không phải gặp mặt trực tiếp.