Nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn biển
Bảo tồn biển sẽ bảo vệ các hệ sinh thái biển và duy trì sự đa dạng sinh học biển sẽ giúp bảo vệ động - thực vật biển, cảnh quan vùng biển được duy trì, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
![]() |
Thực hiện các cam kết quốc tế và đẩy mạnh công tác bảo tồn biển, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 742 về việc “Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2020”.
Ngoài 16 khu bảo tồn biển trải dài từ Bắc xuống Nam tính đến năm 2015, giai đoạn 2016 – 2020, sẽ tiến hành nghiên cứu để đề xuất quy hoạch phát triển mở rộng hệ thống khu bảo tồn biển, thiết lập và đưa vào hoạt động một số khu bảo tồn biển mới.
Việc phê duyệt “Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2020” đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các Bộ, ngành và địa phương ven biển chủ động hơn trong kế hoạch hành động bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ cảnh quan môi trường biển, góp phần thúc đẩy phát triển thương hiệu biển Việt Nam, cũng như phát triển kinh tế biển bền vững.
Theo đó, cần hoàn thiện hệ thống thể chế chính sách, pháp luật về biển và hải đảo. Đặc biệt là tập trung xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Biển Việt Nam đã được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 21/6/2012. Đồng thời, kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về khu bảo tồn biển theo hướng: Ở Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có chức năng, nhiệm vụ quản lý các khu bảo tồn biển. Bộ Tài nguyên và Môi trường có chức năng, nhiệm vụ lập quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước, quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo.
Mặt khác cũng cần thu hút các nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế, có sự hỗ trợ và quản lý của nhà nước về xây dựng thương hiệu các sản vật, sản phẩm biển trong các khu bảo tồn để bảo vệ môi trường biển, phát triển kinh tế biển. Thí điểm mô hình chi trả hệ sinh thái rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển ở một số khu bảo tồn biển đã quy hoạch để tổng kết, xây dựng chính sách về chi trả hệ sinh thái biển. Chú trọng đến xây dựng cơ chế, chính sách bảo đảm sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư sinh sống xung quanh các khu bảo tồn biển.
Hiện nước ta đã tham gia các Công ước quốc tế liên quan đến biển, như Công ước Luật Biển 1982, Công ước MARPOL 73/78, Công ước RAMSA, Công ước BASEL và Công ước Đa dạng sinh học. Do đó, thể chế về quản lý biển, đảo cũng phải được hoàn thiện theo xu thế hội nhập quốc tế để áp dụng vào thực tế nước ta, đảm bảo thực thi có hiệu lực ở cấp quốc gia.
Tuy vậy, để công tác bảo tồn biển có hiệu quả cần phải xây dựng các cơ chế, chính sách bảo đảm phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành và địa phương ven biển; có sự phân công, phân cấp rõ ràng trong quản lý các khu bảo tồn biển. Xây dựng cơ chế, chính sách phối hợp trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ phối hợp về quản lý các khu bảo tồn biển giữa các Bộ, ngành và địa phương, nhằm giải quyết được những chống chéo, trùng lắp hoặc bỏ sót nhiệm vụ. Sớm thành lập đầy đủ Ban quản lý của 16 khu bảo tồn biển, để tạo ra sự thông suốt trong quản lý từ Trung ương đến địa phương.
Bên cạnh việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên môn sâu về lĩnh vực biển đảo; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ quản lý khu bảo tồn biển; lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng biển và phân vùng sử dụng biển đi đôi với rà soát, điều chỉnh quy hoạch các khu bảo tồn, cần phải chú trọng phát huy vai trò của cộng đồng dân cư tham gia đắc lực vào việc xây dựng và quản lý các khu bảo tồn biển hiện có. Trong đó nên nhân rộng mô hình quản lý cộng đồng do cộng đồng dân cư địa phương, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia xây dựng và quản lý khu bảo tồn biển, để khai thác, sử dụng các khu bảo tồn biển có hiệu quả, tạo sinh kế cho cộng đồng dân cư, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.