Học sinh khá, giỏi có xu hướng tự hủy hoại bản thân
Ảnh minh họa |
Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ mang tên “Hiện tượng tự hủy hoại bản thân của học sinh trung học cơ sở (THCS) và biện pháp phòng ngừa” do PGS.TS Huỳnh Văn Sơn làm chủ nhiệm đã tiến hành điều tra trên 1.043 học sinh tại 7 trường THCS trên địa bàn tại TPHCM và Bình Dương.
Kết quả nghiên cứu thực trạng hành vi cho thấy có đến 643 học sinh (61,6%) có hành vi bỏ bê bản thân mình, thể hiện sự thiếu trách nhiệm với bản thân.
Bên cạnh đó có đến 401 khách thể có “suy nghĩ bi quan về cuộc sống”, chiếm tỷ lệ cao thứ 2 (chiếm 38,4%). Có đến 149 học sinh thừa nhận “từng làm đau bản thân mình”, chiếm 31,6%. Từ 1.043 học sinh này, nhóm nghiên cứu sàng lọc được 280 học sinh có thực hiện hành vi tự hủy hoại bản thân.
Đặc biệt, dấu hiệu tự hủy hoại bản thân trên thân thể có những con số báo động khi xét ở mức độ nhiều và rất nhiều, như tự bứt tóc chiếm 18,2%; tự cắn mình cũng chiếm 18,2%. Đáng sợ là hành vi tự đánh và đấm mình chiếm đến trên 35% ở hai mức nhiều và rất nhiều. Đập đầu vào một vật gì đó cũng chiếm gần 20%.
Các hành vi tự hủy hoại bản thân của học sinh lứa tuổi này như tự cắt xén, bứt tóc; tự khắc lên da thịt; tự đầu độc; tự cắn, cào, đánh đấm mình... thậm chí mức độ cao hơn là có mưu toan tự tử, thực hiện hành vi tự tử.
Trong sinh hoạt hằng ngày, học sinh thường không quan tâm đến sức khỏe bản thân bởi không cảm thấy mình có giá trị. Ngoài ra, họ có thể ăn quá nhiều để an ủi chính bản thân, chán ăn hoặc bỏ bữa, tuyệt thực, thức khuya, lạm dụng chất kích thích, lạm dụng thuốc ngủ.
Về nhận thức, những biểu hiện hành vi tự hủy hoại bản thân đáng lưu ý như: "với tôi cuộc sống rất khắc nghiệt, khó khăn"; "nghi ngờ bản thân và khả năng mặc dù biết bản thân là người có năng lực"; "tôi nghĩ mình không đáng để sống; tôi ước rằng mình không bao giờ được sinh ra".
Về biểu hiện hành vi trên trong thái độ, một số biểu hiện thường có như "tôi đau khổ trong im lặng"; "cảm thấy căng thẳng, lo lắng và thất vọng mà không hiểu lý do khi cố gắng làm điều quan trọng nhất với bản thân"; "tôi cảm thấy ray rứt sau khi thực hiện hành vi tự hủy hoại bản thân".
PGS.TS Huỳnh Văn Sơn cho biết, học sinh càng gặp khó khăn về tâm lý thì dễ có hành vi tự hủy hoại bản thân, điều đó dễ thấy ở các học sinh lớp 6 là lớp đầu cấp và lớp 9 là lớp cuối cấp chuẩn bị thi cử.
Tuy nhiên không phải do sức ép từ người khác mà các em có hành vi tự hủy hoại mà có nhiều trường hợp chính bản thân các em kỳ vọng quá cao vào bản thân mình. Một số em bị bạn bè công kích, ép buộc hoặc bắt chước theo trào lưu tôn thờ cảm xúc.
Đáng chú ý, số liệu thống kê cho thấy, đối tượng có dấu hiệu hành tự hủy hoại bản thân có xu hướng tập trung ở các học sinh khá, giỏi khi trong 280 học sinh có hành vi tự hủy hoại bản thân có đến 99 học sinh giỏi, 110 học sinh khá, 51 học sinh trung bình.
Tương đồng đó, tỷ lệ học sinh có hạnh kiểm tốt và khá chiếm đa số, trong khi đó tỷ lệ học sinh có hạnh kiểm trung bình, yếu kém thấp hơn và gần như không đáng kể.
Theo PGS.TS Huỳnh Văn Sơn, học sinh đang phải đối mặt với nhiều khó khăn tâm lý trong việc lựa chọn những giá trị của thời đại. Vì vậy, học sinh tuổi dậy thì có những hành động tự tổn hại, tự hành hạ mình trở thành một biểu hiện đáng xem xét.
Nhóm nghiên cứu cũng đề ra một số biện pháp phòng ngừa như nâng cao nhận thức về hành vi tự hủy hoại bản thân cho học sinh THCS, giáo viên và đặc biệt là chuyên viên tham vấn học đường; tổ chức các chuyên đề kỹ năng sống lồng ghép nhằm phát triển năng lực ứng phó với hành vi này cho học sinh; xây dựng hệ thống kiến thức và bài tập hướng dẫn học sinh có dấu hiệu “tự hủy hoại bản thân” nhằm điều chỉnh trạng thái tâm lý và đối phó với các tác nhân kích thích hành vi này.