Hoạt động rửa tiền gây nguy hại lớn đến các tổ chức tài chính
![]() |
Ảnh minh họa |
Hậu quả lớn nhất mà hành vi rửa tiền gây ra cho một TCTC đó là làm mất uy tín của tổ chức này. Ở bất cứ quốc gia nào, niềm tin luôn đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và hoạt động của hệ thống tài chính. Các TCTC bị coi là nơi chuyên rửa tiền hoặc có liên quan đến các vụ điều tra về rửa tiền sẽ mất uy tín rất lớn trước khách hàng và đối tác. Khách hàng, cả người đi vay, nhà đầu tư và người gửi tiền, sẽ ngừng giao dịch với TCTC bị nghi ngờ rửa tiền khiến TCTC sẽ mất cơ hội kiếm lời và tăng rủi ro tổng thể của danh mục đầu tư và cho vay.
Điều này sẽ đe dọa sự tồn tại của chính bản thân tổ chức đó nói riêng và sự ổn định, phát triển của nền tài chính nói chung. Ngoài ra, một TCTC bị coi là tổ chức rửa tiền cũng bị mất uy tín đối với các TCTC khác trong nền kinh tế. Thậm chí, trong thực tế, hoạt động rửa tiền cũng đã gây ra một số vụ phá sản ngân hàng trên toàn cầu, trong đó có vụ phá sản của ngân hàng Internet đầu tiên trên thế giới: European Union Bank.
Không những thế, theo nghiên cứu từ Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho thấy, có mối quan hệ giữa hành vi rửa tiền và các hoạt động lừa đảo, vi phạm quy chế nội bộ của TCTC do nhân viên thuộc các TCTC thực hiện, ví dụ như: vụ bê bối rửa tiền, lừa đảo và nhận hối lộ của Ngân hàng Tín dụng và Thương mại Quốc tế (Bank of Credit and Commerce International - BCCI) năm 1991; vụ phá sản năm 1995 của Ngân hàng Baring đều liên quan tới các hoạt động vi phạm và lừa đảo của các nhân viên giao dịch.
Khi nhân viên các TCTC cấu kết với tội phạm rửa tiền thì hậu quả gây ra cho các TCTC là vô cùng nghiêm trọng, chưa kể đến việc chính hành vi lừa đảo, vi phạm quy trình nghiệp vụ… còn gây ra những hệ lụy khác. Đặc biệt, đối với các vụ rửa tiền ở quy mô lớn, các tổ chức tội phạm muốn mở rộng tầm ảnh hưởng của mình sẽ tấn công mạnh mẽ vào đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhân viên và quản lý của TCTC, gây ra tham ô, tham nhũng, làm xói mòn hoạt động của các TCTC.
Hơn nữa, “tiền bẩn” từ hoạt động rửa tiền gây mất cân bằng cơ cấu nợ và tài sản của các TCTC do có lượng tiền đến và đi nhanh chóng, gây rủi ro về thanh khoản cho từng TCTC riêng lẻ cũng như hệ thống các TCTC nói chung. Mặt khác, nếu TCTC dựa vào lượng “tiền bẩn” này để kinh doanh sẽ gặp vấn đề lớn khi khoản tiền này đột ngột được rút ra để chuyển sang các tài khoản khác hoặc sử dụng để mua các loại tài sản, công cụ tài chính, hợp đồng bảo hiểm hay các loại tài sản xa xỉ khác.
Nhất là các TCTC sẽ có nguy cơ gặp phải rủi ro pháp lý khi bị điều tra về các hành vi rửa tiền. Các vấn đề về kiện cáo, điều tra sẽ làm cho TCTC tốn kém nhiều chi phí. TCTC này cũng sẽ sẽ phải đứng trước nguy cơ chịu các hình phạt nặng từ cơ quan chức năng, bao gồm cả bị tịch thu tài sản, bồi thường với giá trị lớn và thậm chí buộc phải đóng cửa các hoạt động.
Hoạt động rửa tiền ảnh hưởng xấu đến uy tín của quốc gia trên thế giới. Các TCTC quốc tế có thể hạn chế giao dịch với các TCTC nơi nước đó có hoạt động rửa tiền. Không chỉ các TCTC chuyên rửa tiền, các TCTC lành mạnh khác cũng phải chịu ảnh hưởng chung từ việc khó tiếp cận thị trường vốn quốc tế hoặc tiếp cận với chi phí tốn kém do phải chịu nhiều điều kiện ràng buộc đi kèm. Mặt khác, các quốc gia bị coi là nơi thuận lợi cho tội phạm rửa tiền sẽ rất khó thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Điều này cũng làm mất đi nguồn vốn và cơ hội để các TCTC phát triển thông qua quan hệ với khách hàng quốc tế.
Rửa tiền gây ra mất cân bằng môi trường đầu tư, khiến cho các nguồn vốn phân bổ không hợp lý, không phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế. Tiền từ các hoạt động rửa tiền sẽ không được sử dụng để đầu tư vào các lĩnh vực phục vụ cho phát triển kinh tế, các lĩnh vực kinh doanh đem lại nhiều giá trị gia tăng và tỷ suất sinh lời cao, mà chỉ được đầu tư vào các tài sản mang tính chất che đậy như góp vốn vào các công ty bình phong hay là mua các loại hàng hóa xa xỉ. Các TCTC bình phong xuất hiện và hoạt động rộng rãi sẽ khiến cho hệ thống tài chính trong nước gặp vấn đề nghiêm trọng, gây mất ổn định cho nền kinh tế và tác động xấu đến hoạt động của các TCTC.
Đặc biệt, rửa tiền sẽ gây biến động lớn về tỷ giá và lãi suất của một quốc gia, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nơi mà quan hệ thương mại với nước ngoài phụ thuộc vào ngoại tệ. Việc đối tượng rửa tiền không đầu tư để phát triển kinh tế mà mua sắm các loại hàng hóa xa xỉ, đặc biệt là các loại hàng hóa xa xỉ nhập khẩu như ô tô, đồng hồ, tác phẩm nghệ thuật, tượng điêu khắc, đồ cổ… cần đến việc quy đổi ngoại tệ để thanh toán và việc chuyển tiền tạm thời giữa nhiều quốc gia để che giấu nguồn gốc gây bất ổn về tỷ giá và lãi suất. Điều này sẽ tác động đến các TCTC.
Trước hết sẽ có sự biến động lớn về tỷ giá và lãi suất từ việc rửa tiền sẽ làm mất đi hiệu lực của chính sách tiền tệ trong nước, dẫn đến việc điều hành kinh tế vĩ mô trở nên rất khó khăn thậm chí là lệch lạc, gây ảnh hưởng đến hoạt động của TCTC. Đồng thời, các biến động này tác động đến khả năng sinh lời của các TCTC, do các tổ chức này tham gia vào nhiều giao dịch ngoại hối, các khoản vay và các công cụ tài chính phụ thuộc vào lãi suất và tỷ giá.