Hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế cho khu vực hải đảo
Ảnh minh họa |
Phó Thủ tướng giao Bộ Công Thương bổ sung số liệu đánh giá thực trạng phát triển thương mại tại khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo trong thời gian qua (từ năm 2010 đến nay) để làm cơ sở xác định cụ thể mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi của Chương trình.
Đồng thời bổ sung thế mạnh, điều kiện, tập quán sản xuất, kinh tế đặc thù của từng khu vực, trên cơ sở đó đề xuất định hướng phát triển thương mại cũng như các giải pháp phù hợp với từng khu vực.
Bên cạnh đó rà soát, đánh giá các chính sách hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế cho khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo, nhất là các chính sách về thương mại đã ban hành để có phương án lồng ghép hiệu quả; rà soát, xác định lại các dự án cần triển khai.
Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Công Thương hoàn thiện Chương trình và dự thảo Quyết định phê duyệt Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2015-2020 theo đúng quy định, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Theo Bộ Công Thương, so với cả nước, số huyện thuộc miền núi, vùng sâu, vùng xa và huyện có xã miền núi, vùng sâu, vùng xa chiếm quá nửa diện tích tự nhiên (hơn 65%), dân số chiếm hơn 50% nhưng tổng giá trị sản xuất công nghiệp chỉ chiếm 9%. Số doanh nghiệp, số hộ - cơ sở sản xuất kinh doanh tương ứng 7% và 14%. Thu nhập bình quân đầu người chưa bằng một nửa.
Với khu vực huyện đảo, các huyện có xã đảo, so với cả nước, diện tích tự nhiên, dân số cũng chiếm 3%; giá trị sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và lưu chuyển hàng hóa dịch vụ tương ứng 1%, 1% và 3%. Số lượng chợ, trung tâm thương mại chiếm hơn 1%. Số doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh chưa tới 1%. Cuộc sống đồng bào khu vực này rất khó khăn với mức thu nhập dưới 7 triệu đồng/năm, bằng 23% mức bình quân đầu người cả nước.
Là địa bàn đặc biệt khó khăn nhưng nhiều chính sách hỗ trợ lại chậm và chưa đủ mức cho nên hiệu quả thấp. Chương trình xúc tiến thương mại biên giới, miền núi, hải đảo các năm từ 2011 đến 2013 chỉ bố trí được số tiền chiếm tỷ lệ 3,7%, 4,17% và 5,34% trong tổng kinh phí xúc tiến thương mại quốc gia.