Cần mua bảo hiểm nghề nghiệp cho bác sĩ
Ảnh minh họa |
Sự cố y khoa chỉ là tảng băng chìm
Hội nghị cũng là nơi để giáo dục, trang bị kiến thức cho nhân viên y tế ứng xử như thế nào khi gặp sự cố y khoa và sự cần thiết phải có các biện pháp dự phòng sự cố y khoa, an toàn cho người bệnh cũng như bác sĩ có môi trường làm việc an toàn.
Trong y văn đã sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để mô tả những rủi ro trong thực hành y khoa như bệnh do thầy thuốc gân nên, sai sót y khoa, tai biến y khoa, an toàn người bệnh và hiện nay thuật ngữ sự cố y khoa không mong muốn được sử dụng ngày càng phổ biến.
Luật khám chữa bệnh xác định sai sót chuyên môn khi người hành nghề vi phạm một trong những nội dung sau: Vi phạm trách nhiệm trong chăm sóc và điều trị người bệnh, vi phạm các quy định chuyên môn kỹ thuật và đạo đức nghề nghiệp và xâm phạm quyền của người bệnh.
Theo định nghĩa của WHO: Sự cố y khoa không mong muốn là tổn thương làm cho người bệnh mất khả năng tạm thời hoặc vĩnh viễn, kéo dài ngày nằm viện hoặc hết. Nguyên nhân do công tác quản lý khám chữa bệnh hơn là do biến chứng người bệnh. Sự cố y khoa có thể phòng ngừa và không thể phòng ngừa.
Các nhà nghiên cứu y khoa, 70 % các sự cố khoa khoa không mong muốn có nguồn gốc từ các yếu tố của hệ thống và chỉ có 30% là do cá nhân người hành nghề. Quy chụp cho cá nhân sẽ dẫn đến văn hóa giấu giếm sự thật sẽ ít hiệu quả trong việc mang lại kết quả dài hạn.
Các lỗi do hệ thống liên quan tới sai sót, sự cố y khoa có thể là các chính sách không phù hợp, các quy định chuyên môn chưa lấy người bệnh làm trung tâm, thiếu nhân lực, ca kíp kéo dài, thiếu phương tiện phục vụ người bệnh, cơ chế tự chủ. Những yếu tố này thường ít được chú ý xem xét liên quan khi phân tích nguyên nhân sự cố y khoa.
Do vậy, nếu chỉ tập trung vào lỗi cá nhân thì nguyên nhân gốc gây ra sự cố vẫn chưa được giải quyết và lỗi tương tự sẽ tiếp tục xảy ra.
Phòng chống sự cố y khoa
Thứ nhất: Tăng cường hệ thống chính sách pháp quy về an toàn người bệnh. Sự cố y khoa mang tính toàn cầu vượt ra tầm điều chỉnh các sai sót mang tính cá nhân người hành nghề, xảy ra mọi lúc, mọi nơi, tại mọi cơ sở y tế có quy mô rộng từ cá nhân, tổ chức, quốc gia và quốc tế. Vì thế, sự cố y khoa cần được xem xét là một vấn đề y tế công cộng.
Thứ hai: Cần xem xét thành lập các tổ chức an toàn người bệnh, các quốc gia tiên phong như Mỹ, Úc, Anh, Canada từ thập kỷ đầu của thế kỷ XXI đã thành lập các tổ chức chuyên trách để tư vấn, giám sát, đánh giá ATNB như ủy ban quốc gia về chất lượng y tế và an toàn người bệnh. Viện nghiên cứu quốc gia an toàn người bệnh của Mỹ, Canada, hiệp hội an toàn người bệnh của Úc…. Các tổ chức trên đóng vai trò rất quan trọng trong việc tham mưu, tư vấn, điều phối các nỗ lực về an toàn người bệnh.
Thứ ba:Triển khai hệ thống báo cáo sự cố y khoa bắt buộc, hiện nay những sự cố y khoa chỉ là phần nổi của tảng băng do đó việc thiết lập hệ thống báo cáo sự cố y khoa là cấp thiết để đánh giá hiện trạng và theo dõi xu hướng.
Thứ tư: Triển khai bảo hiểm nghề nghiệp, việc triển khai bảo hiểm nghề nghiệp sẽ giúp bảo vệ người hành nghề, bảo vệ cơ sở y tế. Khi có sự cố y khoa xảy ra cơ quan bảo hiểm có trách nhiệm giải quyết bồi thường cho người bệnh và sẽ có tác động làm tăng niềm tin của người bệnh và gia đình người bệnh về khả năng đền bù khi có sự cố xảy ra và từ đó sẽ giảm bớt gây căng thẳng cho thầy thuốc và cơ sở y tế.
Thứ năm: Cải thiện môi trường làm việc và văn hóa an toàn người bệnh. Đảm bảo nhân lực đáp ứng yêu cầu bệnh viện hoạt động 24/24, rà soát lại các thường quy làm việc như khám chữa bệnh, kê đơn, phát thuốc, bàn giao ca kíp phát hiện các khoảng trống có nguy cơ tiềm tàng tới sự an toàn người bệnh để chủ động khắc phục, rà soát và cập nhật các hướng dẫn chuyên môn, khắc phục lỗi hệ thống và tăng cường giáo dục, kiểm tra sự tuân thủ của người hành nghề, tăng cường chuyên nghiệp và luôn đặt lợi ích của người bệnh lên trên các lợi ích của cá nhân trong khi hành nghề.
Thứ sáu: Tăng cường kiểm tra, giám sát sự tuân thủ của người hành nghề, giảm thiểu các sai sót trong sự cố y khoa liên quan tới việc xác định sai tên người bệnh, thông tin không đầy đủ giữa các cán bộ y tế, sai sót trong dùng thuốc, sai sót trong phẫu thuật, thủ thuật, tăng cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn, sử dụng trang thiết bị y tế.