Môi giới hôn nhân ngoại quốc: "Ổ" buôn người trá hình
Môi giới hôn nhân xuyên biên giới là ổ trá hình của bọn buôn người. Ảnh minh họa |
Gia tăng nhanh chóng những cuộc hôn nhân đa văn hóa
Đại diện Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM) tại Việt Nam nhận định: Sự phát triển mạnh mẽ của giao lưu kinh tế - thương mại, văn hóa, du lịch giữa Việt Nam với các nước và nhiều nguyên nhân khác nữa đã làm gia tăng nhanh chóng việc kết hôn giữa công dân Việt Nam, chủ yếu là phụ nữ, với người nước ngoài.
Xuất phát từ hoàn cảnh kinh tế gia đình, do tác động về tâm lý về lấy chồng ngoại và sự nở rộ của hoạt động môi giới hôn nhân, số phụ nữ lấy chồng nước ngoài thông qua dịch vụ môi giới hôn nhân tăng mạnh trong những năm gần đây. Tình trạng trên còn do tác động của sự già hoá dân số, mất cân bằng giới tính; do tác động và áp lực của xã hội đương đại, phụ nữ ở Hàn Quốc và Trung Quốc (Đài Loan), nơi có nhiều cuộc hôn nhân đa văn hoá, không muốn từ bỏ công việc, sự nghiệp để lấy chồng rồi ở nhà chăm sóc chồng con và gia đình; do nam giới ở hai địa bàn này muốn lấy vợ trong nước phải chi một khoản tiền rất lớn (100.000-200.000 USD) so với số tiền lấy vợ nước ngoài (10.000-18.000 USD).
“Do những bấp cập trong công tác quản lý và thực thi pháp luật, một số cá nhân, tổ chức tội phạm đã lợi dụng việc hôn nhân xuyên biên giới để tiến hành các hoạt động buôn bán phụ nữ”- đại diện IOM tại VN nhấn mạnh.
Theo các con số thống kê của Bộ Tư pháp, số lượng phụ nữ lấy chồng nước ngoài không có xu hướng giảm. Chỉ riêng trong ba năm 2007-2010, đã có gần 32.000 phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài, phần lớn là người Trung Quốc (Đài Loan) và Hàn Quốc.
Phần đông phụ nữ lấy chồng nước ngoài cho rằng “chồng ngoại” sẽ đem lại cho họ cuộc sống giàu sang, nhàn hạ, thậm chí có tiền gửi về giúp đỡ gia đình. Nhiều cô dâu vỡ mộng bởi thực tế cuộc sống và hoàn cảnh kinh tế của gia đình chồng, thêm vào đó là hôn nhân không xuất phát từ tình yêu, cộng thêm rào cản về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục tập quán, nên đời sống vợ chồng thường trục trặc. Trên thực tế, không ít cô dâu Việt đang phải đối mặt với bi kịch không lối thoát từ chính hôn nhân xuyên quốc gia. Tỷ lệ những cô dâu Việt Nam tại Ðài Loan được phát hiện bị ngược đãi, hành hạ chiếm khoảng từ 6-10%.
Nếu tính cả những trường hợp khác chưa biết thì tỷ lệ này còn cao hơn. Thực trạng trên là nguyên nhân đổ vỡ của nhiều cuộc hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài.
Việc có được quốc tịch từ quê hương người chồng sẽ đem lại nhiều lợi thế cho các cô dâu nước ngoài. Do đó, tuy nhiều cô dâu không muốn, nhưng vẫn phải nộp đơn xin nhập quốc tịch sở tại với điều kiện có sự bảo lãnh của chồng. Nhiều người trong số này bị rơi vào tình trạng cư trú, làm việc bất hợp pháp có thể trở thành nạn nhân của những vụ buôn bán người do hôn nhân đổ vỡ hoặc do mâu thuẫn gia đình, người chồng từ chối sự bảo lãnh này.
Tăng cường truyền thông
Đại diện Tổ chức Di cư Quốc tế tại Việt Nam cho rằng, thời gian qua, công tác quản lý Nhà nước của Việt Nam đối với quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài đã từng bước được nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Việc giải quyết những vấn đề liên quan đến quốc tịch của cô dâu Việt Nam, bảo vệ và hỗ trợ cô dâu Việt Nam ở nước ngoài cơ bản đã đi vào nền nếp, góp phần đảm bảo nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam và người nước ngoài vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục. Ở một số địa phương, nhiều trường hợp kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài, phổ biến là với nam giới Trung Quốc (Đài Loan), Hàn Quốc, được tiến hành vội vã, còn mang nặng mục đích kinh tế, hoặc mang tính trào lưu, còn nhiều trường hợp thông qua môi giới trái phép, không đảm bảo nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
Hoạt động kinh doanh, môi giới kết hôn bất hợp pháp của một số tổ chức cá nhân vẫn tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của phụ nữ Việt Nam, gây phản cảm, bức xúc trong dư luận. Tại các tỉnh biên giới, nhiều trường hợp kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam và người nước ngoài không được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của hai nước.
Để khắc phục tình trạng trên, IOM Việt Nam khuyến nghị các cơ quan hữu quan của Việt Nam cần phải đẩy mạnh thông tin tuyên truyền trên phạm vi cả nước, đặc biệt là ở các tỉnh, thành, địa phương có nhiều phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài nhằm nâng cao ý thức pháp luật,nhận thức về hôn nhân quốc tế và thực trạng của phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài của cá nhân, tổ chức và của toàn xã hội.
Trên cơ sở đó để thống nhất biện pháp và hành động nhằm thực thi hiệu quả các quy định của pháp luật về hôn nhân có yếu tố nước ngoài, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cô dâu trước khi xuất cảnh, khi ở nước ngoài cũng như con cái họ; hạn chế, và ngăn chặn các hoạt động thương mại hoá hôn nhân, môi giới hôn nhân bất hợp pháp, đặc biệt là tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em ra nước ngoài hiện đang có xu hướng gia tăng, biểu hiện dưới nhiều hình thức và thủ đoạn ngày càng tinh vi.